Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 18/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 01 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 368/2021/TLST- HS ngày 28 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2022/QĐXXST-HS ngày 06/01/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H (tên gọi khác: C), sinh năm 1968; Giới tính: Nam; Đăng ký nhân khẩu thường trú: Số 47 N, phường T, quận X, thành phố H. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/10; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Xuân N, sinh 1938; con bà: Dương Thị Đ, sinh 1935; Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ hai; Vợ: Phạm Thị H2, sinh 1970; Có 02 con, con lớn sinh 1992, con nhỏ sinh 1997. Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú. (bị cáo có mặt).

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo H: Chị Phạm Thị H2, sinh 1970. Địa chỉ: Số 47 N, phường T, quận X, thành phố H – là vợ của bị cáo. (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo H: + Luật sư Trịnh Kim V – Luật sư VP Luật sư Đ – Đoàn Luật sư TP H. Thẻ LS số: 83xx cấp ngày 16/9/2013;

+ Luật sư Đặng Xuân Đ - Luật sư VP Luật sư Đ – Đoàn Luật sư TP H. Thẻ LS số: 11xxx cấp ngày 19/7/2016;

(Ông V có mặt, ông Đ vắng mặt).

Bị hại: Anh Nguyễn Hữu X, sinh năm 1970. Địa chỉ: phường C, quận B, thành phố H (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 40 phút ngày 13/07/2020, Nguyễn Văn H cùng vợ là chị Phạm Thị H2 (Sinh năm: 1970, HKTT: số 47 đường N, phường T, quận X, thành phố H) đi ô tô đến Trung tâm Phát triển quỹ đất quận Nam Từ Liêm tại số 1 đường L, phường D, quận N, thành phố H. Chị H2 sau đó vào nộp đơn tại Phòng tiếp công dân của Ủy ban nhân dân quận N còn H đi lên khu làm việc tầng 3 của Trung tâm Phát triển quỹ đất rồi vào trong phòng anh Nguyễn Hữu X (Sinh năm: 1970; HKTT: phường C, phường B, thành phố H) - Phó giám đốc Trung tâm. H vào thấy anh X đang ngủ và trên bàn làm việc có để 01 chiếc điện thoại di động Iphone X, 64 GB màu bạc, gắn sim số 0975456X nên H đã lấy chiếc điện thoại của anh X cho vào trong túi quần rồi đi xuống tầng 1 và H đi ra xe ô tô của mình đang đỗ tại ngõ đối diện của Trung tâm Phát triển quỹ đất quận N để điện thoại vừa lấy tại ghế phụ của xe. Sau đó, H lái xe ô tô đỗ vào trong sân khu tiếp dân của Ủy ban nhân dân quận N. Khoảng 13 giờ 15 phút cùng ngày, anh X tỉnh dậy không thấy điện thoại đâu nên đã nhờ nhân viên đi tìm hộ. Lúc này, anh Nguyễn Văn H3 (Sinh năm: 1984, HKTT: TDP 4 đường M, quận N, thành phố H) là nhân viên của Trung tâm Phát triển quỹ đất quận N thấy vậy có gọi nhiều cuộc gọi vào số điện thoại của anh X thấy có đổ chuông nhưng không có ai nghe máy. Anh H3 đã dùng máy tính đăng nhập tài khoản Icloud của anh X để định vị thì thấy vị trí chiếc điện thoại đang ở khu tiếp dân của Ủy ban nhân dân quận N nên anh H3 xuống để tìm. Khi xuống, anh H3 gặp H đang ở sân khu tiếp dân thì H hỏi anh H3: “Mày đi tìm cái gì” nhưng anh H3 không trả lời và tiếp tục vào phòng tiếp dân tìm điện thoại nhưng không thấy nên anh H3 quay lại Trung tâm Phát triển quỹ đất để tìm. H sau đó lái xe đến trước cổng Đội Quản lý trật tự xây dựng Đô thị quận N. Đến lúc này, anh H3 tiếp tục định vị thì thấy vị trí chiếc điện thoại của anh X đang ở Đội Quản lí trật tự xây dựng Đô thị nên anh H3 đi xuống tìm thì gặp H, H gọi anh H3 vào trong Đội quản lí trật tự xây dựng Đô thị để uống nước. Thấy vậy, anh H3 bật ghi âm điện thoại và đi cùng H vào tầng 1 bên trong Đội Quản lý trật tự xây dựng Đô thị. Tại đây, H nói với anh H3: “cầm điện thoại bố cầm, bảo bố trêu mà” rồi H đi ra xe mở cửa xe và gọi anh H3 lên xe để lấy điện thoại của anh X nhưng anh H3 không lên. H sau đó lái xe vào sân khu tiếp dân của Ủy ban nhân dân quận N và lấy chiếc điện thoại của anh X bọc vào tờ giấy Viettel Post màu vàng rồi cầm vào phòng tiếp dân và để chiếc điện thoại trên bàn làm việc sát tường cạnh cây nước sau đó bỏ ra ngoài. Một lúc sau, chị Nguyễn Thùy D (Sinh năm: 1984, HKTT: đường V, quận B, thành phố H) là cán bộ đang làm việc tại phòng tiếp dân phát hiện chiếc điện thoại. Do nghĩ là điện thoại của vợ chồng H để quên nên chị D gọi chị H2 vào hỏi xem thì chị H2 trả lời không phải. Lúc này, anh Dương Thành L (Sinh năm: 1994, HKTT: đường Đ, quận B, thành phố H) là nhân viên Trung tâm Phát triển quỹ đất quận N đi vào thấy chị D đang cầm trên tay chiếc điện thoại và nhận ra là điện thoại của anh X và nói đây là chiếc điện thoại của anh X bị mất nên chị D đã cầm chiếc điện thoại trên đặt lại vị trí cũ. Anh Nguyễn Hữu X sau đó đến cơ quan công an trình báo sự việc.

* Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone X, 64 GB, màu bạc, số Imei: 356721085008051, ốp điện thoại bằng nhựa, màu nâu, gắn sim: 0975456X bọc trong 01 phiếu gửi Viettel Post màu vàng; 01 USB chứa dữ liệu hình ảnh và đoạn ghi âm liên quan đến vụ án.

Tại Kết luận định giá tài sản số 382 ngày 28 tháng 07 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận Nam Từ Liêm, Hà Nội xác định: 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone X, 64 GB, màu bạc, số Imei: 356721085008051, gắn sim: 0975456X, đã qua sử dụng trị giá: 7.500.000 đồng; 01 ốp điện thoại bằng nhựa, màu nâu, đã qua sử dụng trị giá: 20.000 đồng; 01 chiếc sim điện thoại thuê bao số 0975456X trị giá: 25.000 đồng.

Tổng trị giá tài sản trộm cắp là: 7.545.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, ban đầu Nguyễn Văn H khai nhận thức được việc H cầm điện thoại của anh X không được sự đồng ý của chủ sở hữu là vi phạm pháp luật. Quá trình điều tra, Nguyễn Văn H thay đổi lời khai và khai mục đích lấy điện thoại của anh X chỉ để trêu đùa. Mặc dù Nguyễn Văn H thay đổi lời khai nhưng căn cứ vào lời khai ban đầu của H, phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp lời khai của anh Dương Thành L, anh Nguyễn Văn H3, chị Phạm Thị H2, chị Nguyễn Thùy D, phù hợp với dữ liệu camera có đủ cơ sở xác định Nguyễn Văn H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc điện thoại của anh X để tại bàn làm việc tại tầng 3 của Trung tâm phát triển quỹ đất sau đó đem xuống xe ô tô của mình đang đỗ tại ngõ đối diện của Trung tâm phát triển quỹ đất quận N cất giấu. Sau khi bị phát hiện, Nguyễn Văn H mới lén đem điện thoại chiếm đoạt được để lại Phòng tiếp dân của Ủy ban nhân dân quận N.

Quá trình điều tra, do bị can khai bị trầm cảm, loạn thần nên ngày 12/3/2021, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định pháp y tâm thần đối với Nguyễn Văn H. Tại bản Kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 232 ngày 22/7/2021 của Viện Pháp y tâm thần Trung ương kết luận: Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội và tại thời điểm giám định bị can Nguyễn Văn H bị bệnh Rối loạn Stress sau sang chấn. Theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F43.1; Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội bệnh ở giai đoạn thuyên giảm, bị can đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi; Tại thời điểm giám định, bệnh ở giai đoạn tiến triển, bị can đủ khả năng nhận thức, hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

Về dân sự: Ngày 17/7/2020, cơ quan điều tra đã tiến hành trao trả chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone X, 64 GB, màu bạc, số Imei: 356721085008051, gắn sim: 0975456X cho anh Nguyễn Hữu X. Anh X đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường về dân sự.

Tại bản cáo trạng số 09/CT- VKS ngày 24/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm bị cáo Nguyễn Văn H bị truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn H thừa nhận có lấy điện thoại của anh X lúc anh X đang ngủ nhưng mục đích chỉ là trêu đùa anh X, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng cho rằng hành vi của mình chỉ có thể bị xử phạt hành chính.

Người bào chữa cho bị cáo H nhất trí với kết luận của cơ quan điều tra và cáo trạng của đại diện Viện kiểm sát. Tuy nhiên mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được cảnh cáo tại phiên tòa do bản thân bị cáo do gia đình bị cưỡng chế đất khiếu kiện kéo dài dẫn đến bị cáo bị bệnh stress sau sang chấn, bị trầm cảm nặng, nên dẫn đến việc lấy điện thoại của anh X trong lúc anh X ngủ mục đích để khi anh X tỉnh dậy sẽ gặp bị cáo và trả văn bản cho bị cáo, mục đích của bị cáo là chỉ trêu đùa anh X.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và kết luận bị cáo Nguyễn Văn H đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét tình tiết giảm nhẹ, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1 Điều 173, điểm i, q, Khoản 1 Điều 51; Điều 65, Bộ luật hình sự tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn H mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng đến 24 tháng.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Xử lý vật chứng: Không.

Về trách nhiệm dân sự: Không Lời nói sau cùng bị cáo: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm và của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội như truy tố của Viện kiểm sát đã truy tố nhưng căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ của vụ án đã được kiểm tra, tranh tụng tại phiên tòa, lời khai của người làm chứng có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận như sau:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 13/7/2020, tại trung tâm Phát triển quỹ đất quận Nam Từ Liêm địa chỉ tại số 1 đường L, phường D, quận N, Hà Nội, Nguyễn Văn H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone X, 64 GB gắn sim: 0975456X trị giá 7.545.000 đồng của anh Nguyễn Hữu X sau đó đem xuống xe ô tô của mình đang đỗ tại ngõ đối diện của Trung tâm phát triển quỹ đất quận N cất giấu. Sau khi bị phát hiện, Nguyễn Văn H mới lén đem điện thoại chiếm đoạt được để lại Phòng tiếp dân của Ủy ban nhân dân quận N. Vật chứng đã thu hồi trả anh Nguyễn Hữu X.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây hoang mang tới quần chúng nhân dân tại địa phương nên cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo là người có bệnh bị hạn chế khả năng điều khiển hành vi của mình; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; tài sản trộm cắp đã được thu hồi trả lại cho bị hại, bị hại không yêu cầu gì về dân sự - là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, q khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo chưa thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội.

[5] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được phân tích ở trên: Xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian và áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng vụ án: Không.

[8] Về dân sự: Bị hại không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; điểm i, q, khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015;

 - Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

- Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H (C) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Không.

Về dân sự: Không.

Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về