Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI NƯỚC, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 02/2024/HS-ST NGÀY 22/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 01 năm 2024, tại Tòa án nhân dân huyện Cái Nước xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 60/2023/HSST ngày 16 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử số: 66/QĐXXST-HS, ngày 29 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Dương Hải H - sinh năm 1984 tại tỉnh Cà Mau; Tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Khóm 8, phường 8, thành phố C, tỉnh C .; Nơi cư trú: Khóm 8, phường 8, thành phố C, tỉnh C .; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Dương Đăng Q (1945), con bà Nguyễn Thị Kim T (Chết); Vợ Nguyễn Thị Hồng T (đã ly hôn) và 02 người con.

Tiền án: 03 tiền án:

+ Ngày 20/6/2017 bị Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, g, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án hình sự phúc thẩm số 80/2017/HSPT. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 01/02/2018 tại Trại giam Cái Tàu, chưa chấp hành xong phần án phí hình sự sơ thẩm và phúc thẩm.

+ Ngày 19/02/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án hình sự sơ thẩm số 22/2020/HS-ST.

+ Ngày 29/4/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HS-ST. Tổng hợp hình phạt với bản án số: 22/2020/HS-ST, ngày 19/02/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau theo quyết định tổng hợp hình phạt số 01/2020/QĐTH ngày 03/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, bị cáo phải chấp hành là 02 năm 06 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 12/02/2022 tại Trại giam Cái Tàu.

Tiền sự: Không. Bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cà Mau trong vụ án khác từ ngày 17/5/2023. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Anh Phan Bạch L, sinh năm 1996 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp N, xã L, huyện C, tỉnh C ..

2. Chị Nguyễn Thị A, sinh năm 1967 (Có mặt). Địa chỉ: Ấp T, xã H, huyện C, tỉnh C ..

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 13/4/2023 Dương Hải H một mình điều khiển xe môtô Hayate đăng ký biển số kiểm soát 69U1-7396 đi từ thành phố Cà Mau đến địa bàn huyện Cái Nước, trước đó Hiệp đã tháo biển số để vào trong cốp xe. Khi đến khu vực ấp Thị Tường A, xã Hưng Mỹ, Hiệp ghé vào quán nước không có bảng hiệu của chị Nguyễn Thị A hỏi mua một ly cà phê mang đi. Lợi dụng lúc chị A đang làm nước, Hiệp đã lén lút lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy A51 A515 Black, màu đen có gắn 02 sim điện thoại số 0941.584.X và 0386.217.X của chị A đang để trên bàn. Hiệp đem điện thoại giấu vào túi quần rồi lên xe bỏ đi về thành phố Cà Mau, sau đó đem bán cho một người thanh niên không rõ họ tên và địa chỉ tại khu vực phường 6, thành phố Cà Mau với giá là 600.000 đồng. Hiệp đã tiêu xài cá nhân hết số tiền trên.

Đến khoảng 11 giờ 40 phút ngày 07/5/2023, Hiệp tiếp tục điều khiển xe môtô trên đi từ thành phố Cà Mau đến địa bàn ấp Năm Đảm, xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước. Hiệp ghé vào tiệm bán gà, vịt của anh Phan Bạch L giả vờ hỏi mua vịt. Lợi dụng lúc vợ chồng anh L không để ý, Hiệp đã lén lút lấy trộm 01 cái túi đeo chéo màu xanh lá cây được để trong giỏ xách đang để trên xe của anh L, bên trong có số tiền là 35.000.000 đồng và một số giấy tờ tùy thân của anh L. Sau khi lấy được túi, Hiệp đã lấy toàn bộ số tiền trên tiêu xài cá nhân, còn túi và những giấy tờ tùy thân, Hiệp đã bỏ trong thùng rác ở phường 6, thành phố Cà Mau. Quá trình điều tra, Hiệp đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại bản kết kuận định giá tài sản số: 18/KL-HĐĐGTS ngày 09/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản huyện Cái Nước kết luận:

- 01 điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy A51 A515 Black, màu đen đã qua sử dụng còn lại 40% giá trị sử dụng, trị giá 3.196.000 đồng.

- 01 sim điện thoại mạng vinaphone có số thuê bao số 0941.584.X, đã qua sử dụng trị giá 100.000 đồng.

- 01 sim điện thoại mạng Viettel có số thuê bao số 0386.217.X, đã qua sử dụng trị giá 100.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản định giá là 3.396.000 đồng.

Tại Cáo trạng số: 59/CT-VKS ngày 13 tháng 10 năm 2023, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước đã truy tố bị cáo Dương Hải H về tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Dương Hải H từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường nên buộc bị cáo có nghĩa vụ bồi thường cho anh L số tiền là 35.000.000 đồng và bồi thường cho chị A số tiền là 3.396.000 đồng. Về án phí buộc bị cáo phải chịu theo quy định.

Bị cáo Hiệp thống nhất nội dung cáo trạng, bản luận tội và đề nghị mức hình phạt của Đại diện Viện kiểm sát, không tham gia tranh luận, đồng ý bồi thường cho chị A và anh L. Bị cáo lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại anh L yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền là 35.000.000 đồng và chị A yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền là 3.396.000 đồng, cùng xin giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cái Nước, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 13/4/2023 Hiệp đã có hành vi lén lút lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy A51 A515 Black, màu đen của chị A trị giá là 3.396.000 đồng. Đến khoảng 11 giờ 40 phút ngày 07/5/2023, Hiệp tiếp tục có hành vi lén lút lấy trộm của anh L 01 cái túi đeo chéo màu xanh lá cây bên trong có số tiền là 35.000.000 đồng và đã tiêu xài cá nhân hết số tiền trên. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 38.396.000 đồng, trong đó tài sản được định giá là 3.396.000 đồng và số tiền là 35.000.000 đồng. Bị cáo có 03 tiền án đều phạm tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhận dân huyện Cái Nước truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”, theo điểm g khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật, đúng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác một cách trái pháp luật. Hành vi của bị cáo không chỉ vi phạm pháp luật mà còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự xã hội tại địa phương; gây tâm lý lo âu cho người dân trong việc quản lý tài sản. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục cải tạo bị cáo thành người tốt và nhằm mục đích răn đe cho toàn xã hội.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Xét nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, có 03 tiền án chưa được xóa án tích, đồng thời hiện bị cáo đã bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 217/2023/HS-ST ngày 22/12/2023, hiện chưa có hiệu lực pháp luật nên tại Bản án này Hội đồng xét xử không tổng hợp hình phạt chung đối với bị cáo theo quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tại phiên tòa, bị hại là chị A và anh L xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội nhiều lần theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Anh L yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền là 35.000.000 đồng, chị A yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 3.396.000 đồng. Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý bồi thường cho anh L và chị A số tiền như trên nên Hội đồng xét xử buộc bị cáo có nghĩa vụ bồi thường cho anh L số tiền là 35.000.000 đồng và bồi thường cho chị A số tiền là 3.396.000 đồng.

[6] Xử lý vật chứng: Đối với xe môtô Hayate biển số kiểm soát 69U1-7396 là phương tiện phạm tội và bị cáo cũng đã dùng phương tiện này thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Cà Mau nên đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau tạm giữ và hiện đã trả cho chủ sở hữu là anh Lê Văn Giàu, vì vậy không đề cập xử lý là có cơ sở.

[7] Từ những phân tích nêu trên nên đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm số tiền là 200.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm số tiền là 1.920.000 đồng theo Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 48 Bộ luật hình sự; Các Điều 584, 585, 589 Bộ luật dân sự; Khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Dương Hải H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt:

1. Bị cáo Dương Hải H 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giam ngày 17/5/2023.

2. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Dương Hải H phải bồi thường cho anh Phan Bạch L số tiền là 35.000.000 đồng (Ba mươi lăm triệu đồng) và bồi thường cho chị Nguyễn Thị A số tiền là 3.396.000 đồng (Ba triệu ba trăm chín mươi sáu nghìn đồng).

Kể từ ngày anh Phan Bạch L và chị Nguyễn Thị A có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo không thi hành số tiền trên thì phải chịu thêm khoản tiền lãi phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thanh toán.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Dương Hải H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm số tiền là 200.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch số tiền là 1.920.000 đồng, nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Nước.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo và bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2024/HS-ST

Số hiệu:02/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Nước - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về