Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 02/2024/HS-ST NGÀY 10/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 99/2023/HSST ngày 17 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2023 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 05/TB-TA ngày 22 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Võ Ngọc D, sinh ngày 18/4/2000 tại Đắk Lắk; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Xóm X, thôn Y, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Chỗ ở: đường T, phường B, quận H, thành phố Đà Nẵng; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ D và bà Trần Thị D; Tiền án, Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt giam ngày 22/8/2023. Có mặt.

* Người bị hại:

1/ Anh Từ Ngọc Phước V, sinh năm 1998; Trú tại: đường L, phường P, quận H, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

2/ Anh Lê D N, sinh năm 2003; Trú tại: đường H, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

3/ Anh Nguyễn Trần Bảo Q, sinh năm 2003; Trú tại: đường Đ, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

4/ Anh Bùi Thạch K, sinh ngày 08/6/2005; Trú tại: đường Y, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

5/ Anh Phan Văn T, sinh năm 1997; Trú tại: đường Y, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Hoàng Tuấn A, sinh năm 2000; Trú tại: đường C, phường K, quận K, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

2/ Ông Trần Anh D, sinh năm 1977; Trú tại: đường T, phường B, quận H, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

3/ Bà Trần Thị D, sinh năm 1978; Trú tại: Xóm X, thôn Y, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Từ ngày 26/7/2023 đến ngày 22/08/2023, Võ Ngọc D đã 03 lần điều khiển xe mô tô hiệu Honda SH 125i BKS 47M1-Y.xx đi đến khu vực bãi để xe của bãi tắm H, phường K, quận N, thành phố Đà Nẵng để trộm cắp tài sản của những người dân đi tắm biển, cụ thể:

Lần thứ 01: Khoảng 17h00 ngày 26/7/2023, D điều khiển xe mô tô đến khu vực bãi để xe của bãi tắm H rồi quan sát xung quanh, phát hiện anh Từ Ngọc Phước V đi xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, BKS: 43C1 - 596.xx chở bạn là Lê D N đến bãi tắm và để xe ở phía bên trái của bãi để xe, bỏ điện thoại vào cốp xe rồi xuống tắm biển. D đợi anh V và anh N xuống biển rồi tới mở cốp xe (chưa được khóa kỹ) lấy trộm 01 điện thoại Iphone 11 Pro, dung lượng 64Gb, màu đen và 01 điện thoại di động Iphone 12 Mini, dung lượng 64Gb, màu xanh bỏ vào túi quần cất giấu. Sau đó, D tháo sim của 02 điện thoại vứt bỏ, rồi đem 02 điện thoại đến cửa hàng mua bán điện thoại H Mobile tại số đường C, phường K, quận C bán cho anh Hoàng Tuấn A với giá 4.500.000đ. Khi bán D nói đây là điện thoại của khách đến cầm đồ, lâu ngày khách không đến lấy nên bán xác để thu hồi vốn. Số tiền bán điện thoại D đã tiêu xài cá nhân hết.

Lần thứ 02: Khoảng 17h00 ngày 19/8/2023, D điều khiển xe mô tô đến khu vực bãi để xe của bãi tắm H rồi quan sát xung quanh, phát hiện xe mô tô hiệu Honda Air Blade BKS: 75C1 – X.71 của anh Nguyễn Trần Bảo Q đang đậu ở phía bên phải của bãi để xe không có người trông coi. D tới mở cốp xe (chưa được khóa kỹ) và lấy trộm 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro Max, dung lượng 64Gb, màu vàng bỏ vào túi quần cất giấu. Sau đó tháo sim của điện thoại ra vứt bỏ, rồi tiếp tục đem điện thoại đến cửa hàng Hoàng Ánh Mobile, bán cho anh Hoàng Tuấn A với giá 3.000.000đ. Khi bán, D nói điện thoại của khách đến cầm đồ, lâu ngày khách không đến lấy nên bán xác để thu hồi vốn. Số tiền bán điện thoại D đã tiêu xài cá nhân hết.

Lần thứ 03: Khoảng 17h00 ngày 22/8/2023, D điều khiển xe mô tô đến khu vực bãi để xe của bãi tắm H rồi quan sát xung quanh, phát hiện anh Phan Văn T đi xe mô tô hiệu SH màu đen, BKS: 43H1-270.xx cùng em họ là anh Bùi Thạch K điều khiển xe mô tô hiệu Exciter (không nhớ BKS) đến bãi tắm H, để xe ở phía bên phải của bãi để xe không có người trông coi. D tới mở cốp xe của anh T (chưa được khóa kỹ) lấy trộm: 01 điện thoại di động Iphone XS Max màu trắng của anh K để nhờ trong cốp xe của anh T (do xe anh K không có cốp xe); 01 hộp đựng kèm tai nghe Bluetooth, màu trắng, nhãn hiệu Airpods 2; 01 áo khoác màu xanh, có nhãn UV trên ngực trái, hiệu Couple TX và 717.000đ của anh T. Sau khi mở cốp xe lấy trộm số tài sản trên thì bị Đội Cảnh sát hình sự Công an quận Ngũ Hành Sơn phát hiện bắt quả tang.

Tang vật thu giữ của Võ Ngọc D:

+ 01 điện thoại di động Iphone XS Max, dung lượng 256Gb, màu trắng;

+ 01 hộp đựng kèm tai nghe Bluetooth, màu trắng, nhãn hiệu Airpods 2;

+ 01 áo khoác màu xanh, có nhãn UV trên ngực trái, hiệu Couple TX;

+ 717.000đ;

+ 01 xe mô tô hiệu Honda SH 125i màu trắng đen, BKS 47M1-Y.71 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô đứng tên Võ Ngọc D.

Thu giữ của anh Hoàng Tuấn A:

+ 01 điện thoại di động Iphone 12 mini, dung lượng 64Gb, màu xanh;

+ 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro Max, dung lượng 64Gb, màu vàng.

* Tại Bản kết luận định giá tài sản số 59/KL-HĐĐGTS ngày 25/8/2023 và Bản kết luận định giá tài sản số 75/KL-HĐĐGTS ngày 02/10/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Ngũ Hành Sơn xác định:

- 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro, màu đen trị giá: 6.960.000đ.

- 01 điện thoại di động Iphone 12 mini trị giá 8.000.000đ.

- 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro, màu vàng trị giá: 7.X.000đ.

- 01 điện thoại di động Iphone XS Max trị giá 4.480.000đ.

- 01 hộp đựng kèm tai nghe Bluetooth, màu trắng, nhãn hiệu Airpods 2 trị giá 1.350.000đ.

- 01 áo khoác màu xanh, có nhãn UV trên ngực trái, hiệu Couple TX trị giá 292.000đ.

Tổng giá trị tài sản 03 lần D trộm cắp là 29.709.000đ.

Về dân sự: Đối với 01 điện thoại di động Iphone 11 pro màu đen của anh Lê D N, do anh Hoàng Tuấn A đã tháo linh kiện để bán nên không thu hồi được. Gia đình của Võ Ngọc D đã bồi thường thiệt hại cho anh Lê D N số tiền 8.700.000đ. Anh N không có yêu cầu gì về dân sự và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho D. Đối với số tiền Hoàng Tuấn A bỏ ra mua điện thoại của bị cáo cũng đã được gia đình bị cáo trả lại cho Hoàng Tuấn A, Tuấn A đã nhận lại tiền và không có yêu cầu gì về phần dân sự.

Đối với anh Nguyễn Trần Bảo Q, anh Từ Ngọc Phước V, anh Bùi Thạch K và anh Phan Văn T sau khi nhận lại tài sản đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Võ Ngọc D và không có yêu cầu gì về dân sự.

Tại bản Cáo trạng số 97/CT -VKS - NHS ngày 16 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn. thành phố Đà Nẵng đã truy tố Võ Ngọc D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52;

điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước đối với xe mô tô hiệu Honda SH 125i màu trắng đen, BKS 47M1-Y.71 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô đứng tên Võ Ngọc D.

Bị cáo Võ Ngọc D thừa nhận trong thời gian từ ngày 26/7/2023 đến ngày 22/08/2023, tại khu vực bãi tắm H, bị cáo đã 03 lần trộm cắp tài sản là điện thoại di động, hộp đựng tai nghe Bluetooth, áo khoác và tiền mặt đúng như cáo trạng đề cập. Phương tiện bị cáo sử dụng để đi trộm cắp và đi bán tài sản là xe mô tô hiệu Honda SH 125i, BKS 47M1-Y.71. Phương thức trộm cắp là quan sát và nhắm vào những trường hợp người tắm biển cất điện thoại, tài sản có giá trị trong cốp xe nhưng không đóng khóa cốp cẩn thận. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt đúng như cáo trạng đề cập. Do đó bị cáo không có ý kiền gì về tội danh, điều luật Viện kiểm sát đã truy tố và đề nghị áp dụng. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng bị cáo cũng không có ý kiến gì, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để các bị cáo sớm có điều kiện về với gia đình.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Trần Thị D trình bày, bà là mẹ của Võ Ngọc D, nguồn gốc xe mô tô Honda SH 125i BKS 47M1-Y.71 là của vợ chồng bà vay mượn tiền mua cho bị cáo để phục vụ việc đi lại. Hiện nay tài sản này đã bị Cơ quan Điều tra thu giữ nên nguyện vọng của bà là xin được trả lại xe mô tô cho gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm vấn công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo cũng như người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa là phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người bị hại cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định: Trong khoảng thời gian từ ngày 26/7/2023 đến ngày 22/8/2023 tại khu vực bãi tắm H, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, lợi dụng sơ hở của người dân đi tắm biển trong việc cất tài sản là điện thoại di động, thiết bị điện tử, tiền trong cốp xe mô tô nhưng không đóng khóa cốp kỹ, Võ Ngọc D đã 03 lần mở cốp 03 xe mô tô lấy trộm tổng cộng 04 điện thoại di động, 01 hộp đựng kèm tai nghe Bluetooth, 01 áo khoác và 717.000đ tiền mặt. Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 29.709.000đ. Do đó Cáo trạng số 97/CT -VKS - NHS ngày 16 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội.

[3] Xét tính chất vụ án thì thấy: Chỉ trong thời gian chưa đầy 01 tháng bị cáo đã 03 lần thực hiện hành vi trộm cắp chiếm đoạt tài sản trị giá lên đến hàng chục triệu đồng. Trước khi thực hiện hành vi bị cáo đã có sự lựa chọn địa điểm là bãi tắm có nhiều khách du lịch, người có nhu cầu giải trí, tắm biển; có sự theo dõi, quan sát nhắm vào những trường hợp chủ sở hữu cất tài sản có giá trị trong cốp xe và không đóng khóa cốp cẩn thận, khi thấy chủ sở hữu đã xuống biển thì bị cáo mới thực hiện hành vi rồi tẩu thoát.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội, tạo tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân. Do đó đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm, cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục đồng thời làm gương cho người khác.

[4] Về các tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho người bị hại và được người bị hại bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt; Xét về nhân thân, bị cáo là người có nhân thân tốt, gia đình bị cáo có công cách mạng, ông ngoại là thương binh, bà nội là người có công và được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba. Do đó Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm cho bị cáo một phần hình phạt khi lượng hình, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

[5] Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và vấn đề liên quan trong vụ án:

[5.1] Đối với anh Hoàng Tuấn A là người làm dịch vụ mua bán điện thoại di động đã 02 lần mua điện thoại của D. Tuy nhiên lúc bán điện thoại D nói dối là điện thoại của khách cầm đồ nhưng không đến lấy nên D bán để thu hồi vốn. Do đó anh Tuấn A không biết đây là tài sản do D trộm cắp mà có. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không đề cập trách nhiệm của anh Tuấn A. Về vấn đề dân sự, gia đình bị cáo cũng đã trả lại cho Hoàng Tuấn A số tiền mà Tuấn A đã bỏ ra để mua điện thoại, Hoàng Tuấn A cũng không có ý kiến hay yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đề cập.

[5.2] Đối với bà Trần Thị D là mẹ bị cáo Võ Ngọc D trình bày về việc đã vay mượn tiền để mua xe mô tô Honda SH 125i BKS 47M1-Y.71 cho bị cáo D đồng thời cung cấp giấy tờ vay mượn tiền với ông Trần Anh D (là em ruột bà D) nên xin được nhận lại xe. Vấn đề này Hội đồng xét xử thấy rằng: Việc vợ chồng bà D mua xe cho bị cáo đứng tên sở hữu để phục vụ việc đi lại là giao dịch tặng cho ngay tình. Bị cáo đã được xác lập quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản, sau đó sử dụng tài sản này làm phương tiện phạm tội trong vụ án nên căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Cơ quan Điều tra đã lập biên bản tạm giữ và tại phiên tòa Viện kiểm sát đề nghị tịch thu sung công Quỹ Nhà nước đối với phương tiện là phù hợp. Do đó Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận đề nghị của bà D về việc xin nhận lại tài sản. Sau này nếu phát sinh tranh chấp liên quan đến việc vay mượn giữa bà Trần Thi Dung với ông Trần Anh D hoặc tranh chấp đòi lại tài sản giữa bà D với bị cáo thì các bên có quyền khởi kiện nhau bằng vụ án dân sự khác, phạm vi vụ án này Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

[6.1] Đối với các vật chứng gồm: 01 điện thoại di động Iphone 12 mini; 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro Max; 01 điện thoại di động Iphone XS Max; 01 hộp đựng kèm tai nghe Bluetooth; 01 áo khoác màu xanh và 717.000 đồng, Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an quận Ngũ Hành Sơn đã trả lại cho các chủ sở hữu hợp pháp là anh Nguyễn Trần Bảo Q, anh Từ Ngọc Phước V, anh Bùi Thạch K và anh Phan Văn T là phù hợp. Sau khi nhận lại tài sản, các chủ sở hữu không có ý kiến hay yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

[6.2] Đối với vật chứng là 01 xe mô tô hiệu Honda SH 125i, màu trắng đen, BKS: 47M1-Y.71 là tài sản của Võ Ngọc D, việc hình thành, sử dụng tài sản như đề cập tại mục

[5.2]. Trong vụ án này bị cáo sử dụng phương tiện này vào mục đích phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Võ Ngọc D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Võ Ngọc D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/8/2023 2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại SH 125I, màu sơn trắng đen, BKS 47M1-Y.71, số khung 9502LY049500, số máy JF95E0060498, sung tích 124, kèm theo Chứng nhận đăng ký xe số 064X do Công an huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 30/12/2020 đứng tên Võ Ngọc D.

(Vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/11/2023 giữa Cơ quan CSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn và Chi cục thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng).

3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Buộc bị cáo Võ Ngọc D phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm, báo cho bị cáo có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay.

Riêng người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2024/HS-ST

Số hiệu:02/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:10/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về