Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐỨC PHỔ - TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 02/2023/HS-ST NGÀY 12/01/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 01 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 47/2022/ TLST-HS ngày 08/12/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo: Hồ Hoài T – sinh ngày 29/7/1988 tại tỉnh Quảng Ngãi Nơi cư trú: Tổ dân phố B, phường N, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp:

Nông; Trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Hoài L (chết) và bà Phạm Thị P; vợ: Phạm Thị Ph, con: có một đứa sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Năm 2006 bị đưa vào Trường giáo dưỡng số 03 thời hạn 24 tháng về hành vi Trộm cắp tài sản theo Quyết định số 2801/QĐ-UBND ngày 29/12/2005 của Chủ tịch UBND huyện Đức Phổ (nay là thị xã Đức Phổ), chấp hành xong ngày 29/12/2007. Năm 2009 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Thành – tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án hình sự số 08/2009/HSST ngày 20/01/2009; chấp hành xong ngày 27/10/2009. Năm 2019 bị Tòa án nhân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án hình sự sơ thẩm số 161/2019/HSST ngày 17/10/2019; chấp hành xong ngày 29/02/2020. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/10/2022 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, có mặt tại phiên tòa.

mặt Người bị hại: Bà Nguyễn Thị – sinh năm 1976 Nơi cư trú: Tổ dân phố A, phường N, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi. Vắng mặt

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Hồ Thị X – sinh năm 1985 Nơi cư trú: Số B Trần Thủ Đ, phường Đ, thị trấn B, tỉnh Quảng Nam. Vắng

Người làm chứng:

- Ông Phạm Văn H – sinh năm 1979 Nơi cư trú: Tổ dân phố P, thị trấn C, huyện H, tỉnh Quảng Ngãi. Vắng mặt

- Bà Bạch Ý V – sinh năm 1987 Nơi cư trú: Tổ dân phố C, phường N, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi. Vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắc như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 03/10/2022, Bạch Ý V (sn 1987, trú tại TDP C, phường N) điều khiển xe môtô BKS 76V6-X chở Hồ Hoài T (sn 1988, trú tại TDP V, phường N) đi từ nhà của T đến Trường tiểu học Nguyễn Nghiêm (cơ sở tại đường Nguyễn Du) để đón con riêng của V là Đặng Quỳnh N; còn V một mình điều khiển xe đến cơ sở Trường tại đường Đỗ Quang Thắng để đón con là Đặng Hải A. Trong lúc đứng đợi trước cổng trường, T quan sát thấy có 01 xe môtô hiệu Honda SH Mode màu trắng BKS 76H1-X dựng dưới lề đường ngay phía trước trường, không có người trông coi, chìa khóa vẫn cấm sẵn trên xe nên T nảy sinh ý định trộm cắp xe để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Lúc này, T đi bộ đến tiếp cận và ngồi lên xe, mở chìa khóa để nổ máy xe, rồi nhanh chóng điều khiển xe tẩu thoát. Sau đó, T điều khiển xe môtô trộm được về nhà để cất giấu. Đến ngày 08/10/2022, T điều khiển xe môtô 76H1-X trộm được đi ra Đà Nẵng để tìm tiệm cầm đồ để cầm xe môtô trên. Khi đi đến thị xã B, tỉnh Quảng Nam, T thấy tiệm cầm đồ tên “Thọ” nên đã vào cầm cố xe môtô 76H1-X cho bà Hồ Thị X (sn 1985, trú tại B Trần Thủ Đ, phường Đ, B, Quảng Nam) với số tiền 10.000.000đ. Số tiền cầm xe có được, T đã tiêu xài cá nhân hết.

Kết luận số 36/KL-HĐĐG ngày 17/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Đức Phổ xác định giá trị còn lại của xe mô tô biển kiểm soát 76H1-X, nhãn hiệu HONDA SH Mode là 41.145.000đồng Cáo trạng số: 01/CT - VKS ngày 07/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi đã truy tố Hồ Hoài T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa, đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo với mức án từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã trả lại cho người bị hại, người bị hại không yêu cầu gì nên đề nghị miễn xét. Đối với yêu cầu của bà Hồ Thị X yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 10.000.000đồng mà bị cáo đã cầm cố chiếc xe là có căn cứ nên đề nghị buộc bị cáo bồi thường cho bà Hồ Thị X số tiền 10.000.000đồng Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại xe mô tô biển kiểm soát 76H1-X, nhãn hiệu HONDA SH Mode cho người bị hại nên không xét Đối với Giấy chứng minh nhân dân mang tên Hồ Hoài T đề nghị trả lại cho bị cáo.

Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an thị xã Đức Phổ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đức Phổ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Hồ Hoài T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án nên có cơ sở để xác định vào khoảng 10 giờ ngày 03/10/2022 bị cáo đã có hành vi trộm chiếc xe mô tô biển kiểm soát 76H1-X, nhãn hiệu HONDA SH Mode của bà Nguyễn Thị T đang dựng ở dưới lề đường ngay phía trước trường tiểu học Nguyễn Nghiêm không có người trông coi. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định bị cáo có hành vi trộm cắp tài sản.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Bị cáo Hồ Hoài T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức điều khiển được hành vi của mình, biết trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng để có tiền tiêu xài cá nhân, lợi dụng sự mất cảnh giác và sơ hở của chủ sở hữu bị cáo trộm cắp tài sản. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ. Giá trị tài sản bị cáo trộm cắp vào ngày 03/10/2022 là 41.145.000đồng. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đức Phổ truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét nhân thân bị cáo đã bị đưa vào Trường giáo dưỡng vào năm 2006, bị Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt tù cùng hành vi trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà còn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội chứng tỏ bị cáo không biết ăn năn hối cải. Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với hành vi, hậu quả của bị cáo gây ra và cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xét. Đối với yêu cầu của bà Hồ Thị X yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 10.000.000đồng mà bị cáo cầm cố chiếc xe mô tô biển kiểm soát 76H1-X. Xét yêu cầu của bà X là có căn cứ nên Hội đồng xét xử buộc bị cáo bồi thường số tiền 10.000.000đồng cho bà Hồ Thị X.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với Giấy chứng minh nhân dân mang tên Hồ Hoài T tuy bị cáo có sử dụng trong việc cầm cố chiếc xe mô tô 76H1-X nhưng xét vật chứng trên là Giấy tờ tùy thân của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

[8] Đối với bà Hồ Thị X không biết việc bị cáo T đem xe môtô 76H1-X đến cầm đồ là tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên không có căn cứ để xử lý là phù hợp nên không xét.

[9] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 500.000đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[10] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổi sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Hồ Hoài T phạm tội “Trộm cắp tài sản” Xử phạt bị cáo Hồ Hoài T 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/10/2022 Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự và Điều 584, 589 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo bồi thường cho bà Hồ Thị X số tiền 10.000.000đồng (mười triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, bên phải thi hành án chậm thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự cho đến khi thi hành xong.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Trả lại cho bị cáo 01 Giấy chứng minh nhân dân số 212245733 mang tên Hồ Hoài T

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Hồ Hoài T phải nộp 200.000đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 500.000đồng (năm trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Hồ Hoài Thương có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2023/HS-ST

Số hiệu:02/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đức Phổ - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về