Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH HÀ, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 02/2023/HS-ST NGÀY 05/01/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay vào hồi 14 giờ 10 phút, ngày 05 tháng 01 năm 2023, tại Trụ sở- Toà án nhân dân huyện T, tỉnh H mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 78/2022/TLST-HS, ngày 12 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2022/QĐXXST-HS, ngày 23 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên Dương Văn Đ, sinh ngày 27/5/1990; Giới tính: Nam.

Tại phường Bắc Hà, thành phố H, tỉnh H.

Nơi cư trú: Số nhà 07, ngõ 9, tổ dân phố 5, đường Xuân D, phường Bắc H, thành phố T, tỉnh H.

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Con ông Dương Minh T, sinh năm 1955 và con bà Bùi Thị H, sinh năm 1969. Anh, chị em ruột: Có 02 người, bị cáo là con thứ nhất.

Vợ: Nguyễn Thị Bé G, sinh năm 1992. (Đã ly hôn) Con: Có 01 con, sinh năm 2012.

*Tiền án, tiền sự: Không.

*Nhân thân:

+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 53/2015/HSST, ngày 31/7/2015 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh H xử phạt bị cáo 15 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a, khoản 1, Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999; Dương Văn Đ đã chấp hành xong bản án và đã được xóa án tích.

+ Ngày 26/01/2018, Dương Văn Đ bị Công an thành phố H, tỉnh H xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 1.000.000 đồng về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý, đã nộp phạt vào ngày 20/7/2018.

+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 92/2019/HS-ST, ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh H xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “Bắt người trái pháp luật” theo khoản 1, Điều 157 Bộ luật Hình sự năm 2015; Dương Văn Đ đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/8/2020, đã được xóa án tích.

*Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 20/10/2022 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh H. (Có mặt tại phiên tòa)

*Bị hại:

Chị Hồ Thị Thu H, sinh năm: 1982; nghề nghiệp: Lao động tự do. Địa chỉ: Thôn Bắc Th, xã Thạch Đ, huyện T, tỉnh H. (Chị H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt)

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Anh T, sinh năm: 1980; nghề nghiệp: Lao động tự do.

Địa chỉ: Số nhà 102, đường Nguyễn Công Trứ, phường Tân Giang, thành phố H, tỉnh H. (Anh T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt)

Người làm chứng:

1. Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm: 1970.

Địa chỉ: Khối phố Đại Đ, phường Thạch L, thành phố H, tỉnh H.

2. Anh Nguyễn Sinh C, sinh năm: 1960.

Địa chỉ: Thôn Thống N, xã Thạch Đ, huyện T, tỉnh H.

(Chị Thủy và anh Cung có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Dương Văn Đ là đối tượng nghiện ma túy và không có việc làm ổn định. Khoảng 20 giờ 40 phút ngày 19/10/2022, Đ đi bộ đến trước nhà chị Hồ Thị Thu H ở thôn Bắc Thượng, xã Thạch Đài thì thấy một chiếc xe máy điện màu đen - ghi, biển kiểm soát 38MĐ1- xxxxx đang tại khu vực cổng nhà chị H. Quan sát xung quanh thấy không có người và thấy xe máy điện không khoá cổ nên Đ đã lấy trộm và dắt đi. Khi dắtxe đi đến cánh đồng thuộc thôn Bắc Thượng, xã Thạch Đài, do sợ bị phát hiện nên Đ đã bẻ gãy biển kiểm soát của xe rồi vứt xuống ruộng. Sau đó, Đ tiếp tục dắt xe đi đến nhà nghỉ Thảo Quang, địa chỉ số 252, đường Vũ Quang, phường Thạch Linh, thành phố H gửi xe máy điện tại đây rồi đi chơi. Sáng ngày 20/10/2022, Đ quay lại nhà nghỉ Thảo Quang dắt xe máy điện này đi đến hiệu cầm đồ T ở địa chỉ số 102, đường Nguyễn Công Trứ, phường Tân Giang, thành phố H gặp anh Nguyễn Anh T - là chủ hiệu cầm đồ. Đ nói với anh T chiếc xe này là của Đ và muốn cầm cố, vì tin tưởng nên anh T đồng ý cho Đ cầm cố chiếc xe máy điện trộm cắp nói trên với giá 3.500.000 đồng. Toàn bộ số tiền này Đ sử dụng tiêu xài cá nhân hết.

Sáng ngày 20/10/2022, chị Hồ Thị Thu H đã đến Công an xã Thạch Đài, huyện T trình báo về việc bị mất trộm chiếc xe máy điện biển kiểm soát 38MĐ1- xxxxx. Chiều ngày 20/10/2022, Dương Văn Đ đã đến Công an xã Thạch Đài đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Cơ quan điều tra đã thu hồi chiếc xe và truy tìm được biển kiểm soát của xe để phục vụ công tác điều tra.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 55/KLĐG, ngày 21/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T kết luận: Chiếc xe máy điện màu đen- ghi, nhãn hiệu DK BIKE, số loại GOGO NEW, số máy DR60V800W220704840, số khung RRWY6EKHVNSN03211, biển kiểm soát 38MĐ1-xxxxx, đã qua sử dụng, giá trị tại thời điểm định giá là 15.000.000 đồng.

Vật chứng vụ án thu giữ gồm: Một chiếc xe máy điện màu đen- ghi, nhãn hiệu DK BIKE, số loại GOGO NEW, số máy DR60V800W220704840, số khung RRWY6EKHVNSN03211, đã qua sử dụng; Một biển kiểm soát xe máy điện nền trắng, chữ đen, có số 38MĐ1-xxxxx.

Đến ngày 10/11/2022, xét thấy không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã trả lại các vật chứng này cho chủ sở hữu là chị Hồ Thị Thu H.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại chiếc xe máy điện và biển kiểm soát của chiếc xe này, chị Hồ Thị Thu H không có yêu cầu gì thêm. Anh Nguyễn Anh T không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền 3.500.000 đồng mà anh đã bỏ ra để cho bị cáo cầm cố chiếc xe máy điện nhãn hiệu DK BIKE màu đen- ghi nói trên.

Bản cáo trạng số 01/CT-VKS-TH, ngày 09/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Dương Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố, đồng thời phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự (BLHS) xử phạt bị cáo Dương Văn Đ mức án từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn từ tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20/10/2022. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên miễn xét. Về áp dụng các biện pháp tư pháp: áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm b, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) truy thu nộp ngân sách nhà nước từ bị cáo Dương Văn Đ số tiền 3.500.000 đồng. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Dương Văn Đ không có ý kiến gì tranh luận với quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên và thừa nhận quyết định truy tố của Viện kiểm sát là đúng.

Bị cáo Dương Văn Đ nói lời nói sau cùng: Bị cáo đã nhận thức được sai phạm của mình xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy, tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay bị cáo khai nhận: Vào khoảng 20 giờ 40 phút, ngày 19/10/2022 tại nhà chị Hồ Thị Thu H ở thôn Bắc Thượng, xã Thạch Đài, huyện T, tỉnh H, Dương Văn Đ đã có hành vi lấy trộm của chị H một chiếc xe máy điện nhãn hiệu DK BIKE màu đen- ghi, biển kiểm soát 38MĐ1- xxxxx, trị giá 15.000.000 đồng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, vật chứng thu giữ được và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án.

Bị cáo Dương Văn Đ là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo Dương Văn Đ đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS. Điều đó, khẳng định quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định pháp luật, không oan sai.

[3]. Xem xét tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử xét thấy rằng hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm quyền sở hữu đối với tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý bất an cho người dân. Xét về nhân thân bị cáo đã 02 lần bị Tòa án đưa ra xét xử về các tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Bắt người trái pháp luật” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm để rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục dấn thân vào con đường phạm tội. Chính vì vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử phạt thật nghiêm, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét chiếu cố giảm nhẹ cho bị cáo một phần thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.

[4].Về xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là sau khi phạm tội đã đầu thú, thành khẩn khai báo, người bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5].Về hình phạt bổ sung: Xét hoàn cảnh kinh tế hiện tại của bị cáo Dương Văn Đ không có nghề nghiệp ổn định, không xác định được tài sản nên không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6].Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra người bị hại chị Hồ Thị Thu H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên miễn xét. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Anh T cũng không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền 3.500.000 đồng mà anh đã bỏ ra để cầm cố chiếc xe máy điện mà bị cáo trộm cắp được, vì thế miễn xét.

[7].Về tiền thu lợi bất chính: Tại phiên tòa bị cáo Dương Văn Đ khai nhận, sau khi lấy trộm xe máy điện nhãn hiệu DK BIKE màu đen- ghi, biển kiểm soát 38MĐ1- xxxxx bị cáo đã đưa đến cầm cố cho anh Nguyễn Anh Tđể lấy số tiền 3.500.000 đồng. Nay anh Nguyễn Anh Tkhông yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền này nên Hội đồng xét xử xét thấy cần truy thu số tiền thu lợi bất chính là 3.500.000đ từ bị cáo để nộp Ngân sách Nhà nước.

[8]. Về án phí: Bị cáo Dương Văn Đ phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Liên quan trong vụ án này, có anh Nguyễn Anh T là người nhận cầm cố chiếc xe máy điện nhãn hiệu DK BIKE màu đen- ghi, biển kiểm soát 38MĐ1- xxxxx do Dương Văn Đ trộm cắp mà có. Tuy nhiên, trong quá trình trao đổi, nhận cầm cố, anh T không biết được chiếc xe này là tài sản do Đ phạm tội mà có. Vì vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T không xem xét xử lý đối với anh Nguyễn Anh T.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1].Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Dương Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[2].Về hình phạt: Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Dương Văn Đ 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20/10/2022.

[3]. Về áp dụng các biện pháp tư pháp:

*Áp dụng điểm b, khoản 1 Điều 47 BLHS; Điểm b, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự truy thu nộp ngân sách Nhà nước từ bị cáo Dương Văn Đ số tiền 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm nghìn đồng) tiền thu lợi bất chính.

[4]. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử buộc bị cáo Dương Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[5]. Về quyền kháng cáo bản án: Căn cứ các Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Đối với người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2023/HS-ST

Số hiệu:02/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Hà - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về