Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VŨ QUANG - TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 02/2023/HS-ST NGÀY 23/02/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Vào hồi 08 giờ, ngày 23 tháng 02 năm 2023 tại điểm cầu trung tâm hội trường xử án Tòa án nhân dân huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh kết nối đến điểm cầu thành phần tại Trại giam Công an tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/2023/TLST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2023/QĐXXST- HS ngày 09/02/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Đào H; Giới tính: nam; Tên gọi khác: Không. Sinh ngày: 15/9/1977. Nơi đăng ký HKTT: Thôn x, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Trình độ văn hóa: Lớp 12/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông: Lê Đình T và bà Nguyễn Thị C (đều đã chết). Anh chị em ruột: Có 02 người, bị cáo là con thứ hai.

Vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1986. Hiện đang xuất khẩu lao động tại nước Malaysia. Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2010.

Tiền sự: Không.

Tiền án: Có 02 tiền án, cụ thể:

+ Ngày 19/3/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

+ Ngày 30/11/2021, bị Tòa án nhân dân thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Nhân thân:

+ Ngày 08/9/2011, bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 30 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, đã được xóa án tích.

+ Ngày 06/3/2015, bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự, đã được xóa án tích.

Bị cáo Lê Đào H bị tạm giữ từ ngày 25/9/2022 đến ngày 27/9/2022 thì bị chuyển sang áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt tại phiên tòa, sức khỏe bình thường và tự bào chữa.

* Bị hại: Anh Phạm Quốc H; sinh năm: 1986; địa chỉ: Tổ dân phố x, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh. Nghề nghiệp: Cán bộ điện lực huyện V, tỉnh Hà Tĩnh (Hiện nay đã chuyển Công tác về điện lực huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh). (Có mặt).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn Đình L; sinh năm: 1972; địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Nghề nghiệp: Lao động tự do. (Có mặt).

- Cháu Lê Bá V; sinh ngày 03/9/2007; địa chỉ: Thôn x, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do. Nghề nghiệp: Học sinh. Người đại diện theo pháp luật cho cháu Lê Bá V là ông Lê Anh T, sinh năm 1969; địa chỉ: Thôn x, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Nghề nghiệp: Lao động tự do. (Vắng mặt).

* Người làm chứng:

- Ông Đậu Phổ; sinh năm: 1962; địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt).

- Bà Nguyễn Thị V; sinh năm: 1975; địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 22/9/2022, Lê Đào H ngồi ăn cơm cùng hai con trai là Lê Bá V và Lê Bá L thì cháu V có nói với H xin tiền mua sách để học, H có trả lời con: “Để một vài hôm bố cho, giờ bố không có”. Sau khi ăn xong thì hai con của H học bài, còn H thì ngồi nghỉ ở ghế đá phía trước sân nhà. Đến khoảng 21 giờ, khi hai con trai của H bắt đầu lên giường ngủ. Lúc này, H suy nghĩ về việc kiếm tiền để lo tiền mua sách cho con nên nảy sinh ý định đi trộm tài sản. Lúc này, H lấy xe đạp của con đi lên thị trấn V, huyện Vũ Quang để tìm tài sản lấy trộm. Đến khoảng 23 giờ 30 phút, ngày 22/9/2022, khi đi qua vòng xuyến sân bóng thị trấn V, H nhìn sang bên phải thì thấy đèn ở cơ quan Điện lực V sáng nên H đạp xe ra phía sau khán đài sân vận động huyện V để xe ở đó trèo vào sân vận động rồi ngồi trên bậc cấp của khán đài sân vận động hút thuốc ngồi chờ mọi người đi ngủ để lấy trộm tài sản. Đến khoảng 01 giờ ngày 23/9/2022, H đi bộ đến trước cổng cơ quan Điện lực, chui vào bên cánh cửa rồi đi bộ theo bậc cầu thang lên tầng hai dãy nhà phía trước thấy phòng trực ca của điện lực đèn sáng, nên đi lại quan sát thấy anh Phạm Quốc H, công nhân điện lực đang đắp chăn nằm ngủ, bên cạnh đầu giường có chiếc điện thoại XS Max màu đen, 01 (một) máy tính bảng Samsung Galaxy S6 Lite màu đen và một chiếc ví da màu vàng nâu nên H lẻn vào lấy chiếc điện thoại bỏ vào trong túi quần trước bên phải, rồi lấy chiếc máy tính và chiếc ví da đi ra. Khi ra đến hành lang, H kiểm tra bên trong chiếc ví thấy bên trong có 550.000 đồng và một số giấy tờ tùy thân nên H lấy toàn bộ giấy tờ để lại hành lang rồi đem các tài sản lấy trộm được đưa về nhà cất dấu.

Đến khoảng 10 giờ ngày 23/9/2022, Lê Đào H bỏ điện thoại lấy trộm được vào túi quần, bỏ chiếc Ipad vào xe đạp điện của con điều khiển đi đến nhà Nguyễn Đình L chơi. Khi đến nơi thì thấy L đang rửa xe ô tô ở sân nên H hỏi: “Có khỏe không?”. L trả lời: “Đang bị đau răng nên mấy ngày không ăn uống được gì”, H nói với L ở nhà H có thuốc nếu uống thì để H về nhà lấy thì L đồng ý. Trước khi về nhà, H lấy máy tính bảng đưa cho L cầm giúp rồi đi về nhà. Sau khi đưa thuốc lại cho L, H ngồi mở máy tính bảng ra chơi. Thấy H đang sử dụng máy tính bảng, L hỏi H: “Máy gì nhìn hay vậy?”. H trả lời: “IPAD anh à, anh thích dùng không em để lại cho”. L nói với H: “Chú dùng thì thôi, nếu bán thì bán cho anh vì đau, ít đi lại có cái xem giải trí cho đỡ buồn”. H không nói gì rồi đi ngủ. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày thì anh P đến nhà L chơi. Thấy chiếc điện thoại Iphone XS Max H để trên giường nên hỏi H mua với giá 5.000.000 đồng nhưng H không đồng ý bán. Ngồi chơi một lúc thì anh P đi về.

Sau khi anh P đi về thì L hỏi H: “Lúc nãy chú và anh P nói gì về mua bán 5.000.000 đồng đó”. H trả lời: “Lúc nãy anh P thấy điện thoại em khen đẹp rồi hỏi mua về cho con học nhưng em không bán”. L hỏi H: “Điện thoại đâu rồi”. H chỉ tay về điện thoại để trên đầu giường và nói: “Đó anh!”. Thì L nói: “Không dùng thì để anh chứ bán cho ai nữa”. H trả lời: “Anh thích lấy mà dùng, chứ em không thích máy này lắm vì khó dùng”. Sau đó cả hai người tiếp tục ngồi chơi đến khoảng 16 giờ cùng ngày thì H đi về nhà nấu cơm cho hai con, đến 19 giờ cùng ngày thì tiếp tục quay lại nhà L rồi hỏi L: “Anh vẫn lấy máy chứ”. L trả lời:

“Thì cứ để đó cho anh, mai anh trả tiền cho”. Sau đó H ngồi chơi và ngủ lại ở nhà L. Đến khoảng 05 giờ 30 phút ngày 24/9/2022 cả hai ngủ dậy, thì L hỏi về nguồn gốc máy nên H nói: Máy của ông bác ngoài Hà Nội đổi máy nên cho em.

L hỏi H: “Cả hai máy bao nhiêu tiền?”. H nói: “Điện thoại bốn triệu, máy tính bảng hai triệu”. Anh L đồng ý rồi đưa H 6.000.000 đồng. Sau khi lấy tiền xong thì H điều khiển xe đạp điện quay về nhà.

Khi về đến nhà thì H được thông tin Cơ quan CSĐT Công an huyện V triệu tập, biết không thể che dấu được hành vi phạm tội của mình nên ngày 25/9/2022, đã đến cơ quan CSĐT Công an huyện V để đầu thú về hành vi trộm cắp tài sản nêu trên và giao nộp 01 (một) chiếc ví da màu vàng và số tiền: 5.934.000 đồng là số tiền do bán tài sản trộm cắp mà có.

Sau khi Lê Đào H đến cơ quan CSĐT Công an huyện V đầu thú, cơ quan CSĐT huyện V đã tiến hành triệu tập Nguyễn Đình L để tiến hành làm việc. Tại cơ quan Công an, Nguyễn Đình L tự nguyện giao nộp là điện thoại iphone XS Max màu đen và chiếc máy tính bảng Samsung Galaxy S6 Lite màu đen.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 14/KL-HĐĐGTS Ngày 27/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng huyện V xác định: Chiếc điện thoại iphone XS Max màu đen có giá trị 6.500.000 đồng; chiếc máy tính bảng Samsung Galaxy S6 Lite màu đen có giá trị 1.366.000 đồng; chiếc ví da màu vàng nâu có giá trị 183.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 8.049.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 01/CT- VKS-VQ ngày 23 tháng 01năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V truy tố bị cáo Lê Đào H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung bản cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt chính: Căn cứ Điểm g Khoản 2 Điều 173, Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Đào H mức án từ 30 (ba mươi) đến 36 (ba sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tạm giữ bị cáo ngày 25/9/2022.

Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự:

- Đối với bị hại anh Phạm Quốc H sau khi nhận lại tài sản bị mất trộm gồm: 01 chiếc điện thoại Iphone XS Max màu đen; 01máy tính bảng Samsung Galaxy S6 Lite màu đen và 01 chiếc ví da màu vàng nâu không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm về vấn đề gì. Số tiền 550.000 đồng bị cáo chưa bồi thường cho anh quá trình điều tra anh yêu cầu bị cáo bồi thường cho anh số tiền trên, tuy nhiên tại phiên tòa xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn nên anh H không yêu cầu bị cáo phải bồi thường và anh cho bị cáo số tiền trên.

- Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Đình L trong quá trình điều tra anh yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 6.000.000 đồng, tại phiên bị cáo H trình bày sau khi bán các loại tài sản do trộm cắp mà có cho anh L với giá 6.000.000, bị cáo dùng số tiền trên để mua nước mắn về cho con ăn cơm hết 66.000 nghìn, số tiền còn lại 5.934.000 đồng, bị cáo đã giao nộp tại cơ quan Công an huyện V hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hàn án dân sự huyện V nên tại phiên tòa anh L yêu cầu bị cáo H bồi thường cho anh số tiền 5.934.000 đồng, số tiền 66.000 nghìn anh cho bị cáo.

Tại phiên tòa xét yêu cầu của bị hại, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là phù hợp theo quy định của pháp luật đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận những yêu cầu trên.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 chiếc điện thoại Iphone XS Max màu đen; 01 máy tính bảng Samsung Galaxy S6 Lite màu đen; 01 chiếc ví da màu vàng nâu quá trình điều tra xác định đây là tài sản của anh Phạm Quốc H bị mất trộm nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V đã trả lại cho anh H.

- Đối với 01 chiếc điện thoại Realme C3i màu xanh dương, có ốp nựa màu nâu – đen của bị cáo Lê Đào H không liên quan đến hành vi phạm tội nên đã trả lại cho bị cáo. Chiếc xe đạp và chiếc xe đạp điện bị cáo sử dụng là của con trai Lê Bá V, quá trình bị cáo lấy để sử dụng vào việc phạm tội và tiêu thụ tài sản cháu V không biết, Cơ quan CSĐT không tiến hành thu giữ chiếc xe đạp điện mà giao trách nhiệm cho cháu V trực tiếp quản lý sử dụng.

- Trả lại số tiền 5.934.000 đồng cho anh Nguyễn Đình L và 01 chiếc xe đạp có khung xe màu xanh dương, trên khung xe có dán logo Đoàn Thanh N và chữ “Sơn Bình” cho cháu Lê Bá V.

Về án phí: Căn cứ khoản 1, 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3; khoản 1 Điều 6; khoản 1, 3 Điều 21; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Lê Đào H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng tiền án phí dân sự trong vụ án hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì tranh luận, được nói lời sau cùng thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo hình phạt thấp nhất. Bị hại không có ý kiến gì tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 5.934.000 đồng, ngoài ra không có ý kiến gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng:

Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa vắng mặt người một người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện theo pháp luật cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng xét thấy họ đã có lời khai đầy đủ tại hồ sơ và việc vắng mặt của họ không làm cản trở việc xét xử, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự quyết định xét xử vụ án.

[2]. Về tình tiết định tội, định khung hình phạt:

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình và thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng pháp luật.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, tang vật thu giữ, biên bản sự việc và các tài liệu, chứng cứ có tài hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Vì vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Do cần tiền tiêu xài và nộp học cho con nên khoảng 01 giờ ngày 23/9/2022, Lê Đào H đã lén lút đột nhập vào phòng trực ca của Cơ quan Điện lực huyện V lấy trộm của anh Phạm Quốc H là nhân viên điện lực huyện V với tổng tài sản chiếm đoạt có giá trị 8.599.000 đồng bao gồm giá trị 01 chiếc điện thoại Iphone XS Max màu đen, 01 chiếc máy tính bảng Samsung Galaxy S6 Lite màu đen, 01 chiếc ví da màu vàng nâu và tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 550.000 đồng. Số tài sản lấy trộm của anh H, Lê Đào H đã bán cho Nguyễn Đình L với số tiền 6.000.000 đồng. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đủ tuổi, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, bị cáo đang có 02 tiền án, cụ thể: Ngày 19/3/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Ngày 30/11/2021, bị Tòa án nhân dân thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự nên hành vi trên của bị cáo Lê Đào H đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Việc xét xử bị cáo theo tội danh và điều luật như Viện kiểm sát truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan, sai.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo Lê Đào H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đầu thú về hành vi phạm tội; tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4]. Quyết định hình phạt:

Xét tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có sức khỏe nhưng không chịu khó tu dưỡng rèn luyện đạo đức, lối sống mà lại thường xuyên sa vào con đường phạm tội. Ngoài hai tiền án như đã nêu trên, bản thân bị cáo là người có nhân thân rất xấu, cụ thể: Ngày 08/9/2011, bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 30 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Ngày 06/3/2015, bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Vì vậy, với lần phạm tội này, cần phải lên mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra và cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp, để cải tạo bị cáo nói riêng và đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con nhỏ đang tuổi ăn học nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Đối với bị hại anh Phạm Quốc H sau khi nhận lại tài sản bị mất trộm gồm: 01 chiếc điện thoại Iphone XS Max màu đen; 01máy tính bảng Samsung Galaxy S6 Lite màu đen và 01 chiếc ví da màu vàng nâu không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm về vấn đề gì. Số tiền 550.000 đồng bị cáo chưa bồi thường cho anh quá trình điều tra anh yêu cầu bị cáo bồi thường cho anh số tiền trên, tuy nhiên tại phiên tòa xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn nên anh H không yêu cầu bị cáo phải bồi thường và anh cho bị cáo số tiền trên nên Hội đồng xét xử miễn xét.

- Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Đình L trong quá trình điều tra anh yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 6.000.000 đồng, tại phiên bị cáo H trình bày sau khi bán các loại tài sản do trộm cắp mà có cho anh L với giá 6.000.000, bị cáo dùng số tiền trên để mua nước mắn về cho con ăn cơm hết 66.000 nghìn, số tiền còn lại 5.934.000 đồng tại phiên tòa anh L yêu cầu bị cáo H bồi thường cho anh số tiền 5.934.000 đồng, số tiền 66.000 nghìn anh cho bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy, quá trình mua chiếc điện thoại Iphone XS Max màu đen và 01 máy tính bảng Samsung Galaxy S6 Lite màu đen của bị cáo H, anh L không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên chấp nhận yêu cầu của anh L là phù hợp theo quy định của pháp luật.

[6]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại cho cháu Lê Bá V 01 chiếc xe đạp có khung xe màu xanh dương, trên khung xe có dán logo Đoàn Thanh Niên và chữ “Sơn Bình”;

- Trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Đình L số tiền 5.934.000 đồng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh;

Trong quá trình điều tra cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V sau khi xác minh làm rõ đã trả lại 01 chiếc điện thoại Iphone XS Max màu đen; 01 máy tính bảng Samsung Galaxy S6 Lite màu đen; 01 chiếc ví da màu vàng nâu cho bị hại anh Phạm Quốc H; 01 chiếc xe đạp điện cho cháu Lê Bá V và 01 chiếc điện thoại Realme C3i màu xanh dương, có ốp nựa màu nâu – đen cho bị cáo Lê Đào H do không liên quan đến hành vi phạm tội Hội đồng xét xử xét thấy phù hợp theo quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[7]. Xem xét trách nhiệm của người liên quan: Trong vụ án này, anh Nguyễn Đình L là người đã mua tài sản do bị cáo Lê Đào H trộm cắp mà có nhưng các tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ để xử lý anh L về hành vi đồng phạm cùng với bị cáo hoặc hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

[8]. Về án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm; bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người đại diện theo pháp luật cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 585, 586, 588 Bộ luật dân sự; điểm b khoản 2 Điều 106, khoản 1, 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3; khoản 1 Điều 6; khoản 1, 3 Điều 21; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tội danh và hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Lê Đào H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lê Đào H 32 (ba mươi hai) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo ngày 25/9/2022.

2. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Nguyễn Đình L số tiền 5.934.000 đồng. (Số tiền này bị cáo đã giao nộp đủ và hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Hà Tĩnh nên được khấu trừ).

3. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho cháu Lê Bá V 01 chiếc xe đạp có khung xe màu xanh dương, trên khung xe có dán logo Đoàn Thanh Niên và chữ “Sơn Bình”;

- Trả lại số tiền 5.934.000 đồng cho anh Nguyễn Đình L.

Các loại tài sản trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Hà Tĩnh.

4. Về án phí: Xử buộc bị cáo Lê Đào H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng tiền án phí dân sự trong vụ án hình sự.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (23/02/2023). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo phần nội dung bản án liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (23/02/203). Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt và người đại diện theo pháp luật cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo phần nội dung bản án liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

47
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2023/HS-ST

Số hiệu:02/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũ Quang - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về