Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAKRÔNG, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 02/2022/HS-ST NGÀY 22/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 3 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 02/2022/TLST-HS ngày 24/01/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 02/2022/QĐXXST-HS ngày 23/02/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa 01/2022/HSST-QĐ ngày 09/3/2022 đối với các bị cáo:

HỒ VĂN K - sinh ngày 16/4/2001 tại tỉnh Q.

Nơi cư trú: thôn K, xã H, huyện Đ, tỉnh Q. Nghề nghiệp: không nghề; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Vân Kiều; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn T, sinh năm: 1974 và bà Hồ Thị Th, sinh năm: 1974. Sống chung với chị B như vợ chồng và 01 con chung sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bị Tòa án nhân dân huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại Bản án số 26/2021/HS-ST, ngày 14/11/2021. Chấp hành xong hình phạt chính ngày 09/02/2022.

Bị cáo bị bắt tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đakrông từ ngày 09/02/2022 đến nay- Có mặt.

HỒ MINH Q - sinh ngày: 21/01/1998 tại tỉnh Q.

Nơi cư trú: thôn K, xã H, huyện Đ, tỉnh Q. Nghề nghiệp: không nghề; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Vân Kiều; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch:

Việt Nam; con ông Hồ Văn H, sinh năm: 1976 và bà Hồ Thị T, sinh năm: 1977, vợ: Hồ Thị V và có 01 con sinh năm: 2016. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bị Tòa án nhân dân huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại Bản án số 26/2021/HS-ST, ngày 14/11/2021.

Bị cáo hiện đang chấp hành án hình phạt tù tại Trại giam Bình Điền, Tổng cục VIII, Bộ Công An - Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Hồ Văn K: Bà Lê Thị Diệu  H- Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Trị - Vắng mặt theo đơn và gửi luận cứ bào chữa.

- Người bào chữa cho bị cáo Hồ Minh Q: Bà Lê Thị Thủy N - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Trị - Vắng mặt theo đơn và gửi luận cứ bào chữa.

- Bị hại: Chị Hoàng Thị N, sinh năm: 1995 và anh Hồ Văn T, sinh năm: 1995, cùng trú tại: Thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Q.

Người đại diện theo ủy quyền của anh Hồ Văn T: Chị Hoàng Thị N, sinh năm:

1995. (Văn bản ủy quyền ngày 07/12/2021 –Vắng mặt.

- Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại Hoàng Thị N: Bà Lê Thị P - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Trị - Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Hồ Tuấn T, sinh năm: 1967, trú tại: Thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Q - Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Văn L, sinh năm: 1981, trú tại: Đội 5, thôn A, xã T, huyện C, tỉnh Q - Vắng mặt.

+ Chị B, sinh năm: 1999, trú tại: Thôn K, xã H, huyện Đ, tỉnh Q - Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người phiên dịch: Ông Hồ Viết H, nghề nghiệp: cán bộ hưu trí, trú tại: Khóm Làng C, thị trấn Krông K, huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị- Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08h ngày 19/7/2021, Hồ Văn K điều khiển xe mô tô BKS 92U1- 036.60 thuộc sở hữu của chị B đến quán nước bà Hội ở gần cầu Khe Van ở thôn Khe Van, xã Hướng Hiệp, huyện Đakrông thì gặp Hồ Minh Q. Tại đây, K rủ Q đi trộm cắp tài sản, Q đồng ý. K giao xe mô tô 92U1-036.60 cho Q cầm lái, Ki ngồi phía sau, điều khiển xe chạy về hướng đường thôn Làng C, xã Hướng Sơn, huyện Hướng Hóa vì khu vực đó người dân hay để xe máy bên đường. Khi đến khu vực chân đồi Tà Rủi thuộc địa phận xã Hướng Hiệp, huyện Đakrông thì nhìn thấy xe mô tô màu xám đen bạc, hiệu Honda Wave Alpha, BKS 74K1- 022.65 của chị Hoàng Thị N đi làm rừng, để xe bên phải đường. Q dừng xe, K cầm tuốc nơ vít đã chuẩn bị từ trước đi đến vị trí xe mô tô BKS 74K1- 022.65, còn Q quay đầu xe mô tô 92U1.036.60 hướng ra Quốc lộ 9 đứng đợi K. K đi đến thì thấy xe mô tô của chị N không có chìa khóa, nhưng ổ khóa ở trạng thái mở nên ngồi lên đạp cần khởi động thì xe nổ máy. K điều khiển xe mô tô BKS 74K1- 022.65, còn Q điều khiển xe mô tô 92U1- 036.60, cả hai chạy xe ra Quốc lộ 9 rồi tiếp tục chạy về hướng Ngã tư Sòng, đưa xe mô tô 74K1- 022.65 đến bán cho anh Nguyễn Văn L, với giá 1.500.000 đồng. Số tiền có được, K và Q dùng 200.000 đồng mua 02 mũ bảo hiểm, còn lại K đưa cho Q 600.000 đồng , K giữ lại 700.000 đồng, hai bị cáo tiêu xài hết.

Tại Kết luận định giá số 23/KL-ĐGTS ngày 17/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Đakrông kết luận: xe mô tô màu xám đen bạc, hiệu Honda Wave Alpha BKS 74K1- 022.65 có trị giá là 5.550.000 đồng.

Cáo trạng số: 02/CT-VKSĐKr ngày 22/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đakrông truy tố các bị cáo Hồ Văn Khải và Hồ Minh Quý về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đakrông tham gia phiên tòa giữ nguyên nội dung Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng: khoản 1 Điều 173, Điều 17, Điều 38, điểm s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với hai bị cáo và áp dụng thêm điểm a khoản 1 Điều 55, khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Q; xử phạt bị cáo Hồ Văn K từ 15 đến 18 tháng tù; xử phạt bị cáo Hồ Minh Q từ 12 đến 15 tháng tù và tổng hợp với hình phạt tại Bản án số 26/2021/HS-ST, ngày 14/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện Gio Linh - Quảng Trị, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung nhưng được trừ đi thời hạn bị cáo đã chấp hành.

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Không xem xét.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo K và Qđã khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo đúng như trong hồ sơ thể hiện, không tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt; Người bào chữa cho các bị cáo nhất trí với tội danh Cáo trạng truy tố, các điều luật mà Kiểm sát viên đề nghị áp dụng.

Người bào chữa cho bị cáo K đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm điểm h, r khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 xử phạt bị cáo K dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

Người bào chữa cho bị cáo Q đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm h, r khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 xử phạt bị cáo Q dưới mức khởi điểm của mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị.

Bị hại và người bảo vệ quyền lợi cho bị hại không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì về thiệt hại sau khi đã nhận lại xe mô tô.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan điều tra, viện kiểm sát nhân dân, Điều tra viên, Kiểm sát viên huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, các bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo, có đủ căn cứ xác định: Vào ngày 19/7/2021, tại khu vực chân đồi Tà Rủi thuộc địa phận xã Hướng Hiệp, huyện Đakrông, Hồ Văn K và Hồ Minh Q lợi dụng sơ hở trong việc quan lý, trông coi tài sản của chị Hoàng Thị N, đã lén lút lấy trộm 01 xe mô tô màu xám bạc đen, hiệu Honda Wave Alpha, BKS 74K1- 022.65 có trị giá là 5.550.000 đồng.

Hành vi của các bị cáo Hồ Văn K và Hồ Minh Q trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đã đủ các yếu tố cầu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng …, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:” Vì vậy, quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đakrông đối với các bị cáo Hồ Văn K và Hồ Minh Q là đúng người, đúng tội.

[3] Xét vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an trên địa bàn. Các bị cáo là những thanh niên có sức khỏe để lao động tạo ra thu nhập cho bản thân, gia đình, nhưng vì chây lười, không chịu lao động mà muốn có tiền tiêu xài, các bị cáo đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản ở nhiều địa bàn khác nhau. Thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo đều có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng các bị cáo đều cố ý thực hiện tội phạm.

Song đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, không có sự cấu kết chặt chẽ. Bị cáo Hồ Văn K là người khởi xướng và chủ động thực hiện hành vi tội phạm, từ khi lấy trộm tài sản đến tiêu thụ. Bị cáo Hồ Minh Q đồng phạm thống nhất về ý chí khi nghe bị cáo K rủ đi trộm cắp tài sản, là người giúp sức tinh thần, hổ trợ bị cáo K điều khiển xe mô tô 92U1- 036.60 chở K đi tìm tài sản để lấy trộm, cùng giúp bị cáo K đưa tài sản trộm được đi tiêu thụ và thụ hưởng giá trị tài sản trộm bán được. Mặt khác hai bị cáo K, Q đều có nhân thân xấu. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt, xử phạt tù cách ly hai bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo các bị cáo trở thành công dân tốt.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử thấy rằng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; trong quá trình điều tra hành vi trộm cắp trong vụ trộm cắp tài sản tại huyện Gio Linh các bị cáo đã tự thú khai ra hành vi trộm cắp tài sản tại huyện Đakrông của vụ án này khi chưa bị phát hiện. Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng các điểm r, s khoản 1 Điều 51 bộ luật Hình sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Đối với các đề nghị của người bào chữa, áp dụng thêm điểm h khoản 1, khoản 2 Điều 51 là không có căn cứ không chấp nhận.

Hiện bị cáo Hồ Văn K đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam từ ngày 09/02/2022. Vì vậy cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Đối với bị cáo Hồ Minh Q đanh chấp hành án hình phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại Bản án số 26/2021/HS-ST, ngày 14/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện Gio Linh – Quảng Trị, đây là hành vi phạm tội xẩy ra sau hành vi trộm cắp tài sản đang bị Tòa án nhân dân huyện Đakrông xét xử, cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 và khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt 09 tháng tù đang chấp hành với hình phạt bản này, buộc bị cáo Quý chấp hành hình phạt chung nhưng được trừ thời gian đã chấp hành án.

[4] Đối với chị B là chủ p H tiện xe mô tô 92U1- 036.60, đã để cho Hồ Văn K sử dụng đi lại nhưng không biết bị cáo sử dụng vào mục đích phạm tội nên không phải chịu trách nhiệm.

Đối với hành vi của anh Nguyễn Văn L mua tài sản do bị cáo Hồ Văn K và Hồ Minh Q bán nhưng không biết tài sản này do bị cáo trộm cắp mà có nên không có dấu hiệu tội phạm, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đakrông đã trả lại các vật chứng cho chủ sở hữu, đúng quy định pháp luật, Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Hoàng Thị N đã nhận lại tài sản xe mô tô BKS 74K1- 022.65 bị mất và không có yêu cầu bồi thường gì thêm; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn L không yêu cầu các bị cáo bồi hoàn 1.500.000 đồng đã bỏ ra mua xe mô tô BKS 74K1- 022.65, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; khoản 1, 3 Điều 17; khoản 1 Điều 38; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với hai bị cáo Hồ Văn K, Hồ Minh Q và căn cứ thêm điểm a khoản 1 Điều 55, khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Quý.

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố các bị cáo Hồ Văn K và Hồ Minh Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Hồ Văn K 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 09/02/2022.

- Xử phạt bị cáo Hồ Minh Q 09 (Chín) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 09 tháng tù tại Bản án số 26/2021/HS-ST, ngày 14/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện Gio Linh - Quảng Trị với hình phạt 09 tháng tù của bản án này, hình phạt chung buộc bị cáo Q phải chấp hành là 18 tháng tù, nhưng được tính trừ thời gian đã chấp hành án từ ngày 09/8/2021 đến ngày 21/3/2022; thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại tính từ ngày tuyên án 22/3/2022.

2. Về án phí: Các bị cáo Hồ Văn K, Hồ Minh Q mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo phần bản án liên quan trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2022/HS-ST

Số hiệu:02/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đa Krông - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về