TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T , TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 02/2020/HS-ST NGÀY 20/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 02/2020/ QĐXXST-HS ngày 10 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:
NGUYỄN VĂN TR (Tr cái bang), sinh năm: 1994 tại tỉnh Ninh Thuận. Nơi cư trú: Khu phố 5, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; chỗ ở hiện nay: Khu phố 6, phường K, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L (Chết) và bà Nguyễn Thị Th; vợ, con: Không; tiền án: Ngày 13/12/2014 và ngày 09/02/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố P, xử phạt 02 năm 06 tháng tù và 01 năm tù cùng về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt buộc Nguyễn Văn Tr phải chấp hành chung 02 bản án là 03 năm 06 tháng tù, chấp hành xong ngày 01/9/2017; tiền sự: Ngày 09/8/2019 bị Công an huyện S xử phạt 750.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (Chưa nộp phạt); nhân thân: Ngày 22/3/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 18 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngày 08/11/2019 bị Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” án đã có hiệu lực; hiện bị cáo đang chấp hành án tại Nhà tạm giữ Công an huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Có mặt) Bị hại: Anh Trương Thành Ng, sinh năm: 1983; nơi cư trú: Thôn V 4, xã N, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Xin xét xử vắng mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm: 1995; nơi cư trú: Thôn T, xã M, huyện S, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt) Người làm chứng: Anh Phạm Văn T, sinh năm: 2003; nơi cư trú: Hẻm 988/30A, đường 30/4, phường 11, thành phố V, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chiều tối ngày 21/5/2019, Nguyễn Văn Tr (Tr cái bang) đi xe Bus (Buýt) từ thành phố P đến thôn V 4, xã N, huyện T để tìm kiếm tài sản trộm cắp. Khoảng 22 giờ cùng ngày, phát hiện nhà anh Trương Thành Ng, sinh năm 1983 ở thôn V 4, xã N không đóng cổng, cửa nhà không khóa, Tr đột nhập vào bên trong phát hiện có một xe mô tô nhãn hiệu Honda Vison màu trắng biển kiểm soát 85E1-xxxxx, có chìa khóa để trong hộc nhỏ phía trước bên trái xe, Tr lén lút dắt xe ra khỏi nhà, khởi động máy điều khiển xe chạy về thành phố P, sau đó sử dụng xe này đi trộm cắp ở các địa bàn các huyện khác.
Đầu tháng 07/2019, Tr sử dụng xe mô tô đã chiếm đoạt của anh Ng, gắn biển kiểm soát 85F1-xxxxx của phương tiện đã trộm cắp ở địa bàn huyện S, điều khiển chạy vào thành phố V thì bị tai nạn nên Tr gọi điện thoại cho bạn nữ tên H (Không rõ lai lịch) nhờ gửi xe tại nhà anh Phạm Văn T, sinh năm: 2003 trú ở số nhà 988/30A, đường 30/4, phường 11, thành phố V rồi về lại tỉnh Ninh Thuận.
Ngày 21/10/2019, Phòng PC02 Công an tỉnh Ninh Thuận chuyển thông tin về tội phạm do Nguyễn Văn Tr thực hiện cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T thụ lý giải quyết theo thẩm quyền; qua làm việc, Tr đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 32/KL- HĐĐG, ngày 24/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T, kết luận: Trị giá xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, biểm kiểm soát: 85E1-xxxxx là 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
Tại bản Cáo trạng số: 01/CT-VKSTN ngày 14 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Tr (Tr cái bang) về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
\ Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản", do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Tr (Tr cái bang) phạm tội "Trộm cắp tài sản" và đề nghị xử phạt bị cáo với mức án từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù.
Về dân sự: Bị hại, người liên quan không có yêu cầu bồi thường gì nên không xem xét.
Lời nói sau cùng: Tại phiên tòa, bị cáo biết hành vi của mình là sai trái vi phạm pháp luật nên mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Tr (Tr cái bang) đã khai nhận hành vi phạm tội như sau: Ngày 21/5/2019 tại thôn V 4, xã N, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. Bị cáo đã có hành vi lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu để lén lút trộm cắp của anh Trương Thành Ng 01 (Một) xe mô tô biển kiểm soát 85E1-xxxxx, nhãn hiệu Honda Vision, màu sơn trắng nâu đen, số khung 5834KY490140, số máy JF86E090055, trị giá 30.000.000 đồng (Theo Kết luận định giá tài sản số: 32/KL- HĐĐG ngày 24/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T). Xét thấy hành vi nêu trên của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây mất trật tự trị an tại địa phương nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Văn Tr (Tr cái bang) về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Vì vậy phải xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa được xóa án tích mà lại phạm tội. Đây thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại đểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Về nhân thân: Ngày 09/8/2019 bị cáo bị Công an huyện S xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (Chưa nộp phạt); ngày 22/3/2012 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 18 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; ngày 08/11/2019 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chứng tỏ bị cáo có nhân thân xấu.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Trương Thành Ng đã nhận lại tài sản bị mất và không có yêu cầu gì khác. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.
Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra Công an huyện T đã tiến hành trả lại cho anh Nguyễn Văn H 01 (Một) biển kiểm soát 85F1-xxxxx là phù hợp. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.
Đối với hành vi của anh Phạm Văn T: Do không biết xe mô tô gửi tại nhà mình là tài sản do bị cáo Nguyễn Văn Tr (Tr cái bang) trộm cắp mà có nên không bị xem xét xử lý hình sự là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.
Bị cáo phải nộp án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 56 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Tr (Tr cái bang) phạm tội "Trộm cắp tài sản". Xử phạt bị cáo 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án số: 39/2019/HS-ST ngày 08/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Ninh Thuận. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung cho 02 bản án là 04 (Bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/7/2019.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội 14. Buộc bị cáo Nguyễn Văn Tr (Tr cái bang) phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 20/02/2020). Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 02/2020/HS-ST
Số hiệu: | 02/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Nam - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/02/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về