Bản án về tội trộm cắp tài sản số 01/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 01/2023/HS-ST NGÀY 12/01/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nghi X xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 35/2022/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2022/HSST-QĐ ngày 27/12/2022 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Công T; tên gọi khác: Không; Sinh ngày 20/10/1981; Nơi sinh: tỉnh Nghệ An; Nơi ĐKHKTT: Khối A phường Trường T, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Chung cư T, phường Bến Th, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Công L và bà Cao Thị K; Vợ Nguyễn Thị Sao M và 02 con lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án: Ngày 14/02/2020 bị TAND thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 07 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 14 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 34/2020/HS-ST. Ngày 29/5/2020 bị TAND huyện Nghi X, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 09 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” tại bản án số 11/2020/HS-ST, chấp hành xong hình phạt trở về địa phương ngày 08/02/2021. Đến nay chưa được xóa án tích đối với hai bản án trên; tiền sự : Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 18/9/2022 đến ngày 21/9/2022 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Anh Nguyễn Xuân L; Sinh năm: 1974; Địa chỉ: Chùa Thanh L, khối 11, thị trấn Xuân An, huyện Nghi X, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Tu sĩ; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Trọng H; Sinh năm 1976; Nơi cư trú: Khối Yên H, phường Hà Huy Tập, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 04/9/2022, Nguyễn Công T, sinh ngày 20/10/1981, thường trú tại khối A, phường Trường T, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An (nơi ở hiện tại: Chung cư T, phường Bến Th, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An) đi đến nhà mẹ vợ là bà Bùi Thị H tại nhà số 4, ngõ 5, đường Nguyễn Huy O, phường Trường T, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An để làm giỗ cho bố vợ. Do trước đó gia đình T đang bàn bạc về việc cất mộ cho bố vợ, nên T gọi điện thoại cho ông Nguyễn Xuân L, sinh năm 1974 (là chủ trì chùa Thanh L thuộc thị trấn Xuân An, huyện Nghi X, tỉnh Hà Tĩnh) để hẹn gặp hỏi ngày giờ cất mộ cho bố vợ thì ông L đồng ý. Một lúc sau, có nhiều người đến nhà bà H, trong đó có anh Nguyễn Trọng H, sinh năm 1976, trú tại khối Yên H, phường Hà Huy Tập, TP Vinh, tỉnh Nghệ An (là anh con dì của vợ T). Anh H đưa chìa khóa chiếc xe môtô nhãn hiệu Jupiter mang biển kiểm soát 37B2-X của H cho T để nép dọn xe. Sẵn có xe, T điều khiển xe của anh H đi đến chùa Thanh L để gặp ông Nguyễn Xuân L. Khi đến chùa Thanh L T đi ra phía sau chùa, dựng xe máy phía sau một tòa nhà rồi đi qua vườn hoa hồng đến sát bờ mương thấy có một số người đang đứng nhìn ông Nguyễn Xuân L đang điều khiển máy xúc phía bên kia mương nước. Thấy ông đang bận việc, T đi lại xe máy để ngồi chờ rồi đi dạo phía sau chùa, T thấy có một chiếc xe ô tô biển kiểm soát 38C-X ở dưới mái tôn, gần với vườn hoa hồng, cách vị trí xe máy T dựng khoảng 9 - 10m, đầu xe ô tô hướng về phía mương nước. T đi dạo qua chiếc xe ô tô bán tải nói trên một đoạn rồi quay lại thì thấy cửa xe ôtô bên phụ lái không đóng kín nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản trong xe ôtô. T đi lại mở cửa xe nhìn vào bên trong, thấy mặt trên của hốc tỳ tay giữa ghế lái và ghế phụ có một xấp tiền, toàn tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng được buộc bằng dây chun, tổng số tiền là 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). T lấy bỏ vào túi quần phía bên trái rồi đóng cửa lại. Lúc này, anh Trần Mạnh H, sinh năm 1979, trú tại TDP11, thị trấn Xuân An, huyện Nghi X, Hà Tĩnh (là người ở trong chùa) đi lại hỏi “Anh làm chi đó”, T trả lời “Lấy đồ cho thầy”, rồi T đi lại xe máy, điều khiển xe đi về nhà mẹ vợ tiếp tục làm giỗ. Số tiền chiếm đoạt được, T đã tiêu xài cá nhân hết. Ngày 18/9/2022, do nhận thức được hành vi của bản thân, biết không thể trốn tránh, Nguyễn Công T đến Cơ quan Công an huyện Nghi X để tự thú về hành vi trên và tự nguyện giao nộp số tiền 500.000đ.

Vật chứng thu giữ: 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam đã trả lại cho ông Nguyễn Xuân L.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nghi X đã trả lại cho ông Nguyễn Xuân L số tiền 500.000đ. Sau khi nhận lại tiền, ông L không có yêu cầu bồi thường dân sự gì khác.

Với hành vi trên, Cáo trạng số 34/CT-VKS-NX ngày 28/11/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Nghi X đã truy tố bị cáo Nguyễn Công T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại các điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Người bị hại trình bày về nội dung vụ án như lời trình bày của bị cáo và nội dung bản cáo trạng không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Ngoài ra, quá trình điều tra và tại phiên tòa người bị hại trình bày còn bị mất trộm 04 chỉ vàng trị giá 20 triệu đồng; 01 chiếc Ipad trị giá 20 triệu đồng; khoảng 04 đến 06 viên đá Ruby (Người bị hại không biết rõ bao nhiêu viên) trị giá khoảng 170 triệu đồng cất trong két sắt; 40 triệu đồng tiền mặt để trong xe ô tô tải biển kiểm soát 38C - X và chìa khóa của chiếc xe ô tô này nhưng không biết mất vào thời điểm nào. Người bị hại nghi ngờ bị cáo Nguyễn Công T là người lấy những tài sản này tuy nhiên không đưa ra được chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình.

Bị cáo khẳng định không lấy chìa khóa xe và các tài sản như người bị hại trình bày vì bị cáo không có chìa khóa két sắt nên không thể mở két để lấy và lần lấy 500.000 đồng là tình cờ thấy cửa xe không đóng.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Nghi X vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Công T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Công T mức án từ 06 đến 08 tháng tù; tổng hợp 09 tháng tù của bản án số 321/2022/HS- ST ngày 31/10/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung từ 15 đến 17 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 18/9/2022 nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 12/7/2022 đến 21/7/2022 tại bản án số 321/2022/HS-ST ngày 31/10/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Ngoài ra còn đề xuất án phí.

Bị cáo nói lời sau cùng thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có tranh luận gì với luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi và quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nghi X, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi X, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo, người bị hại trong quá trình điều tra, với nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và các chứng cứ khác có tại hồ sơ, như vậy đủ cơ sở kết luận: Để có tiền tiêu xài cá nhân, ngày 04/9/2022 tại chùa Thanh L khối 11, thị trấn Xuân An, huyện Nghi X, tỉnh Hà Tĩnh; Nguyễn Công T, sinh ngày 20/10/1981, thường trú tại khối 12, phường Trường T, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An (nơi ở hiện tại: Chung cư T, phường Bến Th, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An) là người đang có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” đã lấy trộm của ông Nguyễn Xuân L, sinh năm 1974 (là chủ trì chùa Thanh L) số tiền 500.000đ (Năm trăm ngàn đồng) để trong xe ô tô tải biển kiểm soát 38C - X đậu dưới mái tôn gần vườn hoa hồng chùa Thanh L.

[3] Hành vi của bị cáo Nguyễn Công T lợi dụng sơ hở lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác số tiền 500.000 đồng là dưới hai triệu đồng. Tuy nhiên bị cáo đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích mà còn vi phạm vì vậy hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Do đó việc truy tố, xét xử bị cáo về tội danh, điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, gây hoang mang, lo lắng trong nhân dân nên cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo tự nguyện trả lại số tiền đã lấy trộm cho người bị hại; bị cáo tự nguyện đến cơ quan chức năng khai báo hành vi phạm tội của mình trước khi người phạm tội bị phát hiện; bố bị cáo là ông Nguyễn Công L được nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng ba, mẹ của bị cáo là bà Cao Thị K được Thủ tướng chính phủ tặng Bằng khen. Do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Trên cơ sở xem xét, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét thấy cần buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời gian như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nhằm giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Bị cáo đang chấp hành hình phạt 09 tháng tù của bản án số 321/2022/HS-ST ngày 31/10/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, vì vậy căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự cần tổng hợp hình phạt chung đối với bị cáo.

[7] Trong vụ án này đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Jupiter BKS 37B2- X mà Nguyễn Công T sử dụng làm phương tiện phạm tội là của anh Nguyễn Trọng H, sinh năm 1976, trú tại khối Yên Hòa, phường Hà Huy Tập, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên anh H không biết việc Tiến dùng chiếc xe này để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nghi X không xem xét trách nhiệm đối với anh H là đúng quy định nên HĐXX không xem xét.

Trong vụ án này người bị hại khai còn bị mất trộm 04 chỉ vàng trị giá 20 triệu đồng; 01 chiếc Ipad trị giá 20 triệu đồng; khoảng 04 đến 06 viên đá Ruby trị giá khoảng 170 triệu đồng cất trong két sắt; 40 triệu đồng tiền mặt để trong xe ô tô tải biển kiểm soát 38C - X và chìa khóa của chiếc xe ô tô này và nghi ngờ bị cáo Nguyễn Công T lấy. Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa không có chứng cứ chứng minh bị cáo đã lấy những tài sản này ngoài lời khai của người bị hại nên không có cơ sở để xem xét xử lý. Kiến nghị Cơ quan điều tra Công an huyện Nghi X tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận đầy đủ tiền bồi thường người bị hại không có yêu cầu gì thêm nên HĐXX không xem xét.

[9] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Nghi X đã trả lại các tài sản là đúng quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Bộ luật hình sự; Điều 135, khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 6; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 và mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án, ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội

2. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Công T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

3. Về hình phạt chính: Xử phạt Nguyễn Công T 06 (Sáu) tháng tù, tổng hợp hình phạt 09 tháng tù tại bản án số 321/2022/HS-ST ngày 31/10/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 18/9/2022 nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 12/7/2022 đến 21/7/2022 của bản án số 321/2022/HS-ST ngày 31/10/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Công T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

75
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 01/2023/HS-ST

Số hiệu:01/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Xuân - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về