Bản án về tội trộm cắp tài sản số 01/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 01/2022/HS-ST NGÀY 04/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 91/2021/TLST- HS ngày 04 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 119/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Dương Hoài N, sinh năm 1977; tại: thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

Nơi đăng ký HKTT: Số 788/19 đường T, phường H, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

Chỗ ở: Không có chỗ ở ổn định.

Nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn L (đã chết) và bà Tạ Thị T; anh em ruột 05 người (lớn nhất sinh năm 19, nhỏ nhất sinh năm 1980).

Tiền sự: Chưa Tiền án: Ngày 28/01/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá xử phạt 12 (Mười hai) tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản (theo Bản án số 16/2019/HS-ST). Đến ngày 18/10/2019 chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích.

Nhân thân: Ngày 10/12/2001, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang xử phạt 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản (theo Bản án số 08/2001/HS-ST). Đến ngày 12/6/2003 chấp hành xong, đã được xóa án tích.

Từ Tháng 01/2021 đến Tháng 3/2021, thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 02/4/2021 bị cáo ra đầu thú và bị tạm giữ, đến ngày 11/4/2021 bị tạm giam theo Lệnh số 39, ngày 11/4/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Rạch Giá. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Rạch Giá.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Tập đoàn N.

Địa chỉ: Số 57 phố K, phường H quận Đ, thành phố Hà Nội.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Dương Tiến S - Chức vụ: Tổ trưởng Tổ kỹ thuật H thuộc Trung tâm viễn thông G; đại diện theo Giấy ủy quyền số:

1146/UQ-VNPT-KG-NSTH ngày 03/7/2021 (Có đơn xin vắng mặt)

* Người làm chứng:

- Ông Dương Tiến S1, sinh năm 1978 (Vắng mặt) Địa chỉ: B13 khu B, phường Q, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

- Ông Nguyễn Chí T1, sinh năm 1989 (Vắng mặt) Địa chỉ: P18-32 đường Đ, phường H, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Dương Hoài N là đối tượng đã có 01 (một) tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích. Do không có nghề nghiệp ổn định và cần tiền tiêu xài nên vào khoảng 03 giờ đầu Tháng 3/2021 (không xác định chính xác ngày), N mang theo trong người 01 đoạn cưa bằng kim loại, loại cưa cầm tay, dài khoảng 20cm, N đi bộ đến trước hẻm 788 đường T, phường H, thành phố G để cắt trộm dây cáp viễn thông. Khi đến nơi, N quan sát thấy xung quanh không có ai nên N dùng cưa cắt 29 (hai mươi chín) đoạn dây cáp viễn thông hiệu SACOM, loại 200 x 2 x 0,5, tổng chiều dài 10,95m của Trung tâm Viễn thông G (thuộc Tập đoàn N) lắp dặt trên trụ điện từ nhà số 784A đến nhà số 788 đường T, N mang số dây cáp trên về gần nhà của N ở số 788/19 đường T. Sau đó N cắt lấy phần lõi đồng bên trong dây cáp đem bán cho một người phụ nữ (không rõ họ tên, địa chỉ) đi thu mua phế liệu qua hẻm 788 đường T được 6000.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng) và tiêu xài hết, còn phần vỏ nhựa màu đen bên ngoài dây cáp N đem giấu tại bãi đất trống cạnh nhà số 788/2 đường T. Sau khi bị mất trộm tài sản, đại diện Trung tâm Viễn thông G đã trình báo sự việc đến Công an phường An Hòa. Ngày 02/4/2021, N đến đầu thú tại Công an phường An Hòa và bị tạm giữ. Đến ngày 11/4/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá khởi tố, tạm giam N về tội Trộm cắp tài sản (Bút lục số 63 đến 66, 68, 74 đến 90).

Ngoài ra, trước đó Dương Hoài N đã 03 (ba) lần thực hiện hành vi cắt trộm dây cáp viễn thông tại khu vực phường H, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá đã thông báo truy tìm và xác minh tại Ủy ban nhân dân phường H nhưng đến nay chưa tìm được chủ sở hữu. Cụ thể như sau:

- Khoảng 02 giờ tháng 01/2021 (không xác định chính xác ngày), N dùng cưa cầm tay cắt trộm nhiều đoạn dây cáp viễn thông, loại 100 x 0,5, nhãn hiệu SACOM, tổng chiều dài khoảng 20m được lắp đặt trên trụ điện phía trước hẻm 788 đường T, phường H. Sau đó, N mang số dây cáp trên về gần nhà rồi cắt lấy phần lõi đồng đem bán cho một người phụ nữ (không rõ họ tên, địa chỉ) đi thu mua phế liệu ngang hẻm 788 đường Nguyễn Trung Trực được 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) và tiêu xài hết, phần vỏ nhựa bên ngoài màu đen N đem giấu tại bãi đất trống cạnh nhà số 788/2 đường T.

- Khoảng 03 giờ đầu tháng 3/2021 (không xác định chính xác ngày), N tiếp tục dùng cưa cầm tay cắt trộm nhiều đoạn dây cáp viễn thông, loại 100 x 0,5, nhãn hiệu SACOM, tổng chiều dài khoảng 10m được lắp đặt trên trụ điện phía trước hẻm L9 đường K, phường H. Sau đó, N mang số dây cáp trên về gần nhà rồi cắt lấy phần lõi đồng đem bán cho một người phụ nữ (không rõ họ tên, địa chỉ) đi thu mua phế liệu ngang hẻm 788 đường T được 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) và tiêu xài hết, phần vỏ nhựa bên ngoài màu đen N đem giấu tại bãi đất trống cạnh nhà số 788/2 đường T.

- Khoảng 03 giờ đầu tháng 3/2021 (không xác định chính xác ngày), N tiếp tục dùng cưa cầm tay cắt trộm nhiều đoạn dây cáp viễn thông, loại 100 x 0,5, nhãn hiệu SACOM, tổng chiều dài khoảng 10m được lắp đặt trên trụ điện gần khu vực ngã ba giao nhau giữa đường T và đường T1 thuộc phường H. Sau đó, N mang số dây cáp trên về gần nhà rồi cắt lấy phần lõi đồng đem bán cho một người nam giới (không rõ họ tên, địa chỉ) đi thu mua phế liệu ngang hẻm 788 đường T được 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) và tiêu xài hết, phần vỏ nhựa bên ngoài màu đen N đem giấu tại bãi đất trống cạnh nhà số 788/2 đường T. (Bút lục số 74 đến 84) Quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Đối với việc đại diện hợp pháp của Trung tâm viễn thông G trình báo còn bị mất trộm nhiều đoạn dây cáp viễn thông tại khu vực phường H, thành phố G. Tuy nhiên, qua điều tra xác định được đặc điểm của số dây cáp này không phù hợp với số dây cáp mà bị cáo N khai đã 03 lần lấy trộm nêu trên; do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá sẽ tiếp tục xác minh theo quy định pháp luật.

Đối với 03 người phụ nữ và 01 người nam giới đã mua số lõi dây cáp đồng do bị cáo N thực hiện hành vi phạm tội mà có, hiện chưa xác định được tên thật, địa chỉ của những người này nên chưa có căn cứ xử lý; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá sẽ tiếp tục xác minh theo quy định pháp luật.

* Việc thu giữ vật chứng:

- Thu giữ tại bãi đất trống cạnh nhà số 788/2 đường T, phường H, thành phố G:

+ 29 (Hai mươi chín) đoạn vỏ dây cáp đồng, nhãn hiệu SACOM, loại 200x2x0,5, tổng chiều dài 10,95m.

+ 85 (Tám mưới lăm) đoạn vỏ dây cáp đồng, nhãn hiệu SACOM, loại 100x0,5, tổng chiều dài 43,3m. - Bút lục số 68 - Người dân cung cấp: 01 (một) đoạn hình ảnh trích xuất từ Camera an ninh có liên quan đến việc bị cáo Dương Hoài N cắt trộm dây cáp viễn thông trước hẻm 788 đường T, thuộc phường H, thành phố G (đã chép vào đĩa DVD, lưu hồ sơ vụ án) - Bút lục số 67, 69, 70.

- Đối với các vật chứng gồm các đoạn lõi dây cáp đồng là tài sản bị mất trộm trong vụ án do bị cáo đã bán cho những người thu mua phế liệu, không rõ họ tên, địa chỉ và các đoạn cưa cầm tay là công cụ bị cáo sử dụng để cắt trộm dây cáp, do bị cáo đã ném bỏ, không rõ ở đâu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá không thu hồi được - Bút lục số 77 đến 84.

* Tại bản kết luận định giá tài sản số: 41/KL-HĐĐGTS ngày 09/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Rạch Giá, kết luận:

- 29 (Hai mươi chín) đoạn dây cáp đồng nhãn hiệu SACOM, loại 200x2x0,5, tổng chiều dài khoảng 10,95m; đã qua sử dụng có giá trị vào Tháng 3/2021 là 1.934.500 đồng (Một triệu chín trăm ba mươi bốn nghìn năm trăm đồng) - Bút lục số 27, 28.

* Tại bản kết luận định giá tài sản số: 69/KL-HĐĐGTS ngày 28/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Rạch Giá, kết luận:

- 85 (Tám mưới lăm) đoạn dây cáp đồng, nhãn hiệu SACOM, loại 100x0,5, tổng chiều dài 43,3m; đã qua sử dụng có giá trị trong thời gian từ Tháng 01/2021 đến Tháng 3/2021 là 4.330.000 đồng (Bốn triệu ba trăm ba mươi nghìn đồng) - Bút lục số 32, 33.

Quá trình điều tra, truy tố bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về các kết luận định giá nêu trên.

* Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị tài sản bị mất trộm theo định giá là 1.934.500 đồng (Một triệu chín trăm ba mươi bốn nghìn năm trăm đồng); bị cáo đồng ý nhưng đến nay chưa bồi thường (Bút lục số 83, 84).

* Bản cáo trạng số: 111/CT-VKS ngày 04 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Dương Hoài N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

* Tại phiên tòa:

- Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, thống nhất kết quả định giá tài sản và không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 tuyên bố bị cáo Dương Hoài N phạm tội “Trộm cắp tài sản”, đề nghị xử phạt bị cáo N mức án từ 12 (mười hai) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có việc làm, không có thu nhập nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tuyên tịch thu tiêu hủy đối với các vật chứng đã thu giữ trong vụ án, hiện không còn giá trị sử dụng, bao gồm:

- 29 (Hai mươi chín) đoạn vỏ dây cáp đồng, nhãn hiệu SACOM, loại 200x2x0,5, tổng chiều dài 10,95m.

- 85 (Tám mưới lăm) đoạn vỏ dây cáp đồng, nhãn hiệu SACOM, loại 100x0,5, tổng chiều dài 43,3m.

(Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 82 ngày 28/5/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá) Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho bị hại số tiền 1.934.500 đồng (Một triệu chín trăm ba mươi bốn nghìn năm trăm đồng).

Đối với số dâp cáp do bị cáo cắt trộm nhưng chưa tìm được chủ sở hữu sẽ tiếp tục xác minh xử lý theo quy định pháp luật.

* Lời nói sau cùng của bị cáo N: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, nhận thức hành vi của mình là sai trái, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Rạch Giá, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo Dương Hoài N đã có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản, do cần tiền tiêu xài nên trong khoảng thời gian từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2021 (không xác định chính xác ngày), lợi dụng khu vực không có người qua lại bị cáo đã nhiều lần lần dùng cưa kim loại cầm tay chuẩn bị sẵn để cắt trộm nhiều đoạn dây cáp viễn thông được lắp đặt trên các trụ điện tại địa bàn phường H, thành phố G. Cụ thể:

- Vào đầu tháng 3/2021 bị cáo đã cắt trộm 29 đoạn dây cáp viễn thông nhãn hiệu SACOM, loại 200x2x0,5, tổng chiều dài là 10,95 mét của Trung tâm Viễn thông G (thuộc Tập đoàn N) lắp đặt trên trụ điện từ nhà số 784A đến nhà số 788 đường T, phường H; sau đó cắt lấy phần lõi đồng bên trong bán được 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng) tiêu xài cá nhân hết.

- Quá trình điều tra, xác minh bị cáo còn thừa nhận trước đó từ tháng 01/2021 đến đầu tháng 3/2021 đã 03 lần cắt trộm tổng cộng 85 đoạn dây cáp viễn thông nhãn hiệu SACOM, loại 100x0,5, với tổng chiều dài là 43,3 mét (chưa rõ chủ sở hữu), lắp đặt trên các trụ điện phía trước hẻm 788 đường T, phía trước hẻm L9 đường K và gần khu vực ngã ba giao nhau giữa đường T và đường T1, đều thuộc phường H; sau đó cắt lấy phần lõi đồng bên trong bán được tổng cộng 1.100.000 đồng (Một triệu một trăm nghìn đồng) tiêu xài cá nhân hết.

Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh và thu giữ được các vật chứng là phần vỏ nhựa màu đen bên ngoài dây cáp (sau khi bị cắt lấy lõi đồng đem bán) mà N đem giấu tại bãi đất trống cạnh nhà số 788/2 đường T, phường H; các vật chứng thu giữ được nêu trên phù hợp với lời khai nhận của bị cáo về số tài sản trộm cắp được và phù hợp với nội dung trình báo của đại diện Trung tâm Viễn thông G (thuộc Tập đoàn N) về số lượng, chủng loại dây cáp viễn thông bị mất trộm.

Theo kết quả định giá, số dây cáp viễn thông do bị cáo trộm cắp 03 lần trong khoảng thời gian từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2021 chưa xác định được chủ sở hữu có giá trị là 4.330.000 đồng (Bốn triệu ba trăm ba mươi nghìn đồng); còn số dây cáp viễn thông bị cáo trộm cắp được của Trung tâm Viễn thông G (thuộc Tập đoàn N) có giá trị là 1.934.500 đồng (Một triệu chín trăm ba mươi bốn nghìn năm trăm đồng). Tổng cộng giá trị tài sản bị cáo trộm cắp được theo kết quả định giá là 6.264.000 đồng (Sáu triệu hai trăm sáu mươi bốn nghìn đồng).

Xét lời khai nhận tội của bị cáo Dương Hoài N trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa đúng theo nội dung kết luận điều tra, nội dung bản cáo trạng; đồng thời phù hợp với lời khai của đại diện bị hại, người làm chứng, kết luận định giá, vật chứng thu giữ cùng với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án; đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 của bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 với khung hình phạt được quy định là “……bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy bị cáo N là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được trộm cắp tài sản là hành vi vi phạm pháp luật; tuy nhiên vì lòng tham, muốn nhanh chóng có tiền tiêu xài mà không phải bỏ công sức lao động, lợi dụng khu vực có tài sản vắng người qua lại, bị cáo đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhiều lần như đã nêu trên. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến sự an toàn của dịch vụ viễn thông cũng như tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bản thân bị cáo còn là người có nhân thân xấu và có 01 tiền án chưa xóa án tích nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện ý thức xem thường, bất chấp pháp luật; do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo N đã bị kết án, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội do cố ý nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã ra đầu thú. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng cho bị cáo các tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi lượng hình.

Xét các chứng cứ buộc tội và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án là có căn cứ, đúng pháp luật. Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo; sau khi nghị án Hội đồng xét xử thống nhất xử phạt bị cáo Dương Hoài N hình phạt tù có thời hạn, giam giữ bị cáo trong một thời gian nhất định để giáo dục, răn đe, cải tạo bị cáo, qua đó đảm bảo được tính phòng ngừa chung trong xã hội.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với các vật chứng đã thu giữ trong vụ án, hiện không còn giá trị sử dụng, bao gồm: 29 (Hai mươi chín) đoạn vỏ dây cáp đồng, nhãn hiệu SACOM, loại 200x2x0,5, tổng chiều dài 10,95m và 85 (Tám mưới lăm) đoạn vỏ dây cáp đồng, nhãn hiệu SACOM, loại 100x0,5, tổng chiều dài 43,3m; Hội đồng xét xử quyết định xử tịch thu tiêu hủy theo quy định pháp luật.

- 01 (một) đĩa DVD chứa đoạn hình ảnh trích xuất từ Camera an ninh có liên quan đến việc bị cáo Dương Hoài N cắt trộm dây cáp viễn thông trước hẻm 788 đường Nguyễn Trung Trực, thuộc phường An Hòa, thành phố Rạch Giá, đã niêm phong, được lưu kèm theo hồ sơ vụ án.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận yêu cầu của người đại diện hợp pháp cho bị hại là Tập đoàn N, buộc bị cáo Dương Hoài N phải bồi thường thiệt hại tài sản cho bị hại số tiền 1.934.500 đồng (Một triệu chín trăm ba mươi bốn nghìn năm trăm đồng). Đối với số tài sản bị trộm cắp còn lại đã được cơ quan điều tra thông báo truy tìm người bị hại theo quy định nhưng đến nay không xác định được chủ sở hữu, nên không ai có yêu cầu gì khác, Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) và án phí dân sự sơ thẩm không giá ngạch đối với số tiền phải bồi thường cho bị hại là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Tuyên bố bị cáo Dương Hoài N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Dương Hoài N 12 (Mười hai) tháng tù; thời hạn tù tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ (ngày 02/4/2021).

* Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, 585, 589 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Buộc bị cáo Dương Hoài N có trách nhiệm bồi thường cho bị hại Tập đoàn N số tiền 1.934.500 đồng (Một triệu chín trăm ba mươi bốn nghìn năm trăm đồng).

Kể từ ngày người bị hại có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo không trả số tiền nêu trên thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106, 107 Bộ luật Tố tụng hình sự; xử:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 29 (Hai mươi chín) đoạn vỏ dây cáp đồng, nhãn hiệu SACOM, loại 200x2x0,5, tổng chiều dài 10,95m.

+ 85 (Tám mưới lăm) đoạn vỏ dây cáp đồng, nhãn hiệu SACOM, loại 100x0,5, tổng chiều dài 43,3m.

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số: 87/QĐ-VKS ngày 04/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá) - Lưu hồ sơ vụ án 01 (một) đĩa DVD chứa đoạn hình ảnh trích xuất từ Camera an ninh có liên quan đến việc bị cáo Dương Hoài N cắt trộm dây cáp viễn thông trước hẻm 788 đường T, thuộc phường H, thành phố G, đã được niêm phong.

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;

Buộc bị cáo Dương Hoài N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

* Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (04/01/2022). Riêng người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 01/2022/HS-ST

Số hiệu:01/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về