Bản án về tội trộm cắp tài sản (máy khoan điện) số 123/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 123/2022/HS-ST NGÀY 28/12/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2022 tại Toà án nhân dân thị xã C, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 124/2022/TLST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 122/2022/QĐXXST - HS ngày 12 tháng 12 năm 2022đối với bị cáo:

Đặng Kim N, sinh năm 1987 tại Thành Phố H; giới tính: Nữ; HKTT:Số 59/42/11, Đỗ Thúc Tịnh, phường N, Quận V, thành phố H; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: 12/12; nghề nghiệp: không; con ông Đặng Thanh C (đã chết)và bà Nguyễn Thị Thanh L (đã chết); Chồng: Huỳnh Văn L; Con: có 02 người, lớn sinh năm 2013, nhỏ, sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: không.Về nhân thân: Ngày 14/8/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh B Dương xử phạt 05 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 54/2015/HSST. Ngày 23/01/2019, chấp hành xong hình phạt, được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từngày 15/10/2022 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Trương Văn S, sinh năm 1958; Địa chỉ cư trú: Khu phố 3B, phường Minh H, thị xã Chơn T, tỉnh B. (Xin vắng mặt);

Ông Từ Văn B, sinh năm 1982; Địa chỉ cư trú: Khu phố 12, phường Minh H, thị xã Chơn T, tỉnh B. (Xin vắng mặt);

Ông Vũ Ngọc S, sinh năm 1987; Địa chỉ cư trú: Khu phố 3B, phường Minh H, thị xã Chơn T, tỉnh B. (Xin vắng mặt);

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Hồ Vĩnh T, sinh năm 1991; Địa chỉ cư trú: Khu phố 2, phường Minh H, thị xã Chơn T, tỉnh B. (Xin vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Đặng Kim N là đối tượng nghiện ma túy và không có nghề nghiệp. Từ đầu tháng 7/2022, lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của người dân trên địa bàn thị trấn C (nay là phường Hưng Long) và xã Minh Hưng, thị xã C (nay là phường Minh Hưng, thị xã C), N nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 04/7/2022, N điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu, biển số 54N3-xxxx đi dọc theo đường Quốc lộ 13 hướng từ thị trấn Tân Khai, huyện Hớn Quản đến phường Minh Hưng, thị xã C để tìm việc làm. Khi đến khu vực ấp 12, xã Minh Hưng, thị xã C (nay là khu phố 12, phường Minh Hưng, thị xã C), tỉnh B, N thấy xưởng mộc “S” của ông Trương Văn S, sinh năm 1958, nơi cư trú: Khu phố 3B, phường Minh Hưng, thị xã C, tỉnh B không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm tài sản bán lấy tiền tiêu xài. N dựng xe môtô ngoài đường rồi đi bộ vào xưởng tìm tài sản lấy trộm. Thấy trên ghế gỗ đặt trong xưởng có để 01 máy khoan điện, không rõ nhãn hiệu, màu đỏ nên N lấy trộm máy khoan điện nói trên. S đó, N đưa tài sản lấy trộm được đến của hàng “Điện cơ Th”, địa chỉ: Khu phố 2, phường Minh Hưng, thị xã C, tỉnh B do anh Hồ Vĩnh Th, sinh năm 1991 làm chủ rồi bán được số tiền 300.000 đồng, N sử dụng số tiền này mua thức ăn và tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ hai: Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 09/7/2022, N điều khiển xe môtô biển số 54N3-xxxx đi dọc theo đường Quốc Lộ 13 hướng từ thị trấn Tân Khai đến ngã tư C để tìm việc làm. Khi đến khu vực ấp 3, thị trấn C, thị xã C (nay là khu phố 10, phường Hưng Long, thị xã C), tỉnh B. N thấy xưởng băm củi “A” của anh Từ Văn B, sinh năm 1982, nơi cư trú: Khu phố 12, phường Minh Hưng, thị xã C, không có người trông coi nên nảy sinh ý định lấy trộm tài sản bán lấy tiền tiêu xài. N dựng xe phía trước sân của xưởng băm rồi đi bộ vào xưởng tìm kiếm tài sản để lấy trộm. Thấy 01 máy hàn điện nhãn hiệu WINTECH, màu đỏ, N lấy trộm rồi đưa ra để lên baga xe môtô. S đó, N tiếp tục đi vào xưởng lấy trộm 01 máy khoan điện nhãn hiệu FCG, màu đỏ và 01 máy khoan tay, màu đỏ. S khi trộm được tài sản, N mang tài sản lấy trộm được đến bán cho anh Th được số tiền 1.000.000 đồng, N sử dụng số tiền này mua thức ăn và tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ ba: Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 14/7/2022, N tiếp tục điều khiển xe môtô biển số 54N3-xxxx đến xưởng băm củi “A” để lấy trộm tài sản bán lấy tiền tiêu xài. N dựng xe phía trước sân của xưởng băm rồi đi bộ vào xưởng tìm kiếm tài sản để lấy trộm. Thấy 01 máy môtơ, màu xám, loại 3hp, không rõ nhãn hiệu nên N lấy trộm rồi bán lại cho anh Th được số tiền 300.000 đồng, N sử dụng số tiền này mua thức ăn và tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ tƣ: Đến khoảng 07 giờ 30 phút ngày 17/07/2022, N tiếp tục đến xưởng băm “A” lấy trộm tài sản bán lấy tiền tiêu xài. Khi N đang tìm kiếm tài sản để lấy trộm thì bị anh B phát hiện, bắt giữ giao Công an thị trấn C, thị xã C (nay là Công an phường Hưng Long, thị xã C). Công an phường Hưng Long lập hồ sơ xác minh ban đầu rồi chuyển đến Cơ quan CSĐT Công an thị xã C để giải quyết theo thẩm quyền.

Vụ thứ năm: Đến khoảng 14 giờ 00 phút ngày 15/10/2022, N đi bộ ngang qua nhà hàng tiệc cưới “Đ”, địa chỉ: Khu phố 2, phường Minh Hưng, thị xã C, tỉnh B do ông Vũ Ngọc S1, sinh năm 1967, nơi cư trú: Khu phố 3B, phường Minh Hưng, thị xã C, tỉnh B làm chủ. Thấy chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng - đen - bạc, không gắn biển số, số khung: RLHJA3909HY311204, số máy: JA39E0311200 (xe môtô có biển số 93B1-xxxxx nhưng trong quá trình sử dụng đã bị rơi mất) của ông S1 đang dựng tại hành lang bên hông nhà, không có người trông coi nên N nảy sinh ý định lấy trộm để sử dụng làm phương tiện đi lại. N đi đến thì thấy chìa khoá xe cắm sẵn trong ổ khoá nên lấy trộm rồi dắt bộ ra ngoài đường nhựa. N lên xe, mở khoá rồi nổ máy bỏ chạy về phòng trọ tại ấp Sóc Răng, xã Thanh B, huyện Hớn Quản, tỉnh B cất giấu. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, phát hiện bị mất xe môtô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng - đen - bạc, không gắn biển số, số khung: RLHJA3909HY311204, số máy: JA39E0311200 nên ông S1 đến Công an phường Minh Hưng trình báo (BL 51-59; 102-103; 105-106; 109-110; 122-143).

Kết luận định giá tài sản số 40/KLĐG-HĐĐGTS ngày 29/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã C (nay là Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã C), kết luận:

- 01 (một) máy hàn nhãn hiệu WINTECH, màu đỏ tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá 2.000.000đồng (Hai triệu đồng).

- 01 (một) máy khoan nhãn hiệu FCG, màu đỏ tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng).

- 01 (một) máy khoan tay không rõ nhãn hiệu, màu đỏ tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng)(BL 78-80).

Kết luận định giá tài sản số 74/KLĐG-HĐĐGTS ngày 18/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã C, kết luận:

- 01 (một) máy môtơ không rõ nhãn hiệu, màu xám, 3hp tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá 1.500.000đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng).

- 01 (một) máy khoan điện không rõ nhãn hiệu, màu đỏ tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng).

Kết luận định giá tài sản số 75/KLĐG-HĐĐGTS ngày 19/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã C, kết luận:Xe môtô môtô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng - đen - bạc, biển số 93B1-xxxxx, số khung: RLHJA3909HY311204, số máy: JA39E0311200, tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá 13.000.000đồng (Mười ba triệu đồng).

Việc thu giữ đồ vật tài liệu và xử lý vật chứng:

- 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu, biển số 54N3-xxxx, số khung: 6K-516514, số máy: GH-516514. Xe có Giấy chứng nhận đăng ký số 025xxx, do Công an quận B, thành phố H cấp ngày 08/4/2009 do anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1988, nơi cư trú: Khu phố 3A, phường Minh Hưng, thị xã C, tỉnh B đứng tên chủ sở hữu. Qúa trình điều tra xác định: Khoảng tháng 03/2022, anh C cho bị can Đặng Kim N (là chị dâu của anh C) mượn để làm phương tiện đi lại, việc N sử dụng xe môtô biển số 54N3-xxxx làm phương tiện đi trộm cắp tài sản thì anh C không biết. Vì vậy, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trả lại cho anh C.

- 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng - đen - bạc, không gắn biển số, số khung: RLHJA3909HY311204, số máy: JA39E0311200 là tài sản của ông Vũ Ngọc S1 bị Đặng Kim N chiếm đoạt. Xét thấy, đây là tài sản hợp pháp của ông Vũ Ngọc S1, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trả lại cho ông S1 (BL 73; 89).

- 01 (một) máy khoan điện, không rõ nhãn hiệu, màu đỏ; 01 (một) máy hàn nhãn hiệu WINTECH, màu đỏ;01 (một) máy khoan nhãn hiệu FCG, màu đỏ;01 (một)máy khoan tay không rõ nhãn hiệu, màu đỏ;01 (một) máy môtơ không rõ nhãn hiệu, màu xám, 3hp. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của ông Trương Văn S và anh Từ Văn B bị N chiếm đoạt. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại ông S và anh B.

Trách nhiệm dân sự: Đối với bị hại Từ Văn B, Vũ Ngọc S1, Trương Văn S đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm. Đối với số tiền 1.600.000 đồng mà anh Hồ Vĩnh Th sử dụng để mua những tài sản do N trộm cắp mà có, anh Th không yêu cầu bị cáo Đặng Kim N phải bồi thường. Do vậy, trách nhiệm dân sự không đặt ra.

Bản cáo trạng số119/CT-VKS, ngày 28 tháng 11 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh B truy tố bị cáo Đặng Kim N phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã C thực hành quyền công tố rút một phần truy tố đối với bị cáo N về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 173 xuống khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, vì: Bị cáo Đặng Kim N thực hiện 05 lần phạm tội, trong đó có 02 lần có giá trị từ 2.000.000 đồng/lần trở lên nên N không phải chịu tình tiết định khung là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù giam.

Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Kim N thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh B đã truy tố.

Lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội và tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.

Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản khám nhiệm hiện trường, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng cũng như phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào ngày 04/7/2022, ngày 09/7/2022, ngày 14/7/2022, ngày 17/7/2022, ngày 15/10/2022, tại địa bàn thị trấn C (nay là phường Hưng Long) và xã Minh Hưng, huyện C (nay là phường Minh Hưng, thị xã C), Đặng Kim N đã thực hiện 05 lần lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản của ông Trương Văn S, Từ Văn B và Vũ Ngọc S1 với tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 18.000.000 đồng. Như vậy, hành vi của bị cáo Đặng Kim N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Điều 173. Bộ luật hình sự quy định: Tội trộm cắp tài sản

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

..................................................;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

...................................................;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

...................................................;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Do đó, Cáo trạng số: 119/CT-VKS, ngày 28 tháng 11 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh B truy tố bị cáo Đặng Kim N về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3]. Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đặng Kim N thực hiện 05 lần phạm tội, trong đó có 02 lần có giá trị từ 2.000.000 đồng/lần trở lên nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.

[3.2]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nuôi con nhỏ. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4]. Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người không có việc làm, thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Ngày 17/7/2022, bị cáo có hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 19/9/2022, bị khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (do nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi). Tuy nhiên, ngày 15/10/2022, tiếp tục phạm tội trộm cắp tài sản. Điều này thể hiện, bị cáo không chấp hành và tuân thủ pháp. Xét thấy cân phai xư phat bi cáo một mức hình phạt nghiêm kh ắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bi cao va cũng để giáo dục, phòng ngừa chung trong xã hội.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh B về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5]. Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại Từ Văn B, Vũ Ngọc S1, Trương Văn S đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm. Đối với số tiền 1.600.000 đồng mà anh Hồ Vĩnh Th sử dụng để mua những tài sản do N trộm cắp mà có, anh Th không yêu cầu bị cáo Đặng Kim N phải bồi thường nên trách nhiêm dân sự không đặt ra nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về vật chứng của vụ án:

- 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu, biển số 54N3-xxxx, số khung: 6K-516514, số máy: GH-516514. Xe có Giấy chứng nhận đăng ký số 025xxx, do Công an quận B, thành phố H cấp ngày 08/4/2009 do anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1988, nơi cư trú: Khu phố 3A, phường Minh Hưng, thị xã C, tỉnh B đứng tên chủ sở hữu. Qúa trình điều tra xác định: Khoảng tháng 03/2022, anh C cho bị can Đặng Kim N (là chị dâu của anh C) mượn để làm phương tiện đi lại, việc N sử dụng xe môtô biển số 54N3-xxxx làm phương tiện đi trộm cắp tài sản thì anh C không biết. Vì vậy, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trả lại cho anh C, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng - đen - bạc, không gắn biển số, số khung: RLHJA3909HY311204, số máy: JA39E0311200 là tài sản của ông Vũ Ngọc S1 bị Đặng Kim N chiếm đoạt. Xét thấy, đây là tài sản hợp pháp của ông Vũ Ngọc S1, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trả lại cho ông S1 nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- 01 (một) máy khoan điện, không rõ nhãn hiệu, màu đỏ; 01 (một) máy hàn nhãn hiệu WINTECH, màu đỏ;01 (một) máy khoan nhãn hiệu FCG, màu đỏ;01 (một)máy khoan tay không rõ nhãn hiệu, màu đỏ;01 (một) máy môtơ không rõ nhãn hiệu, màu xám, 3hp. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của ông Trương Văn S và anh Từ Văn B bị N chiếm đoạt. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại ông S và anh B nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đặng Kim N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, 50; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Đặng Kim N 02 (hai) năm tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 15/10/2022.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứĐiều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đặng Kim N phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (máy khoan điện) số 123/2022/HS-ST

Số hiệu:123/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chơn Thành - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về