Bản án về tội trộm cắp tài sản (Ipad pro) số 104/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 104/2023/HS-PT NGÀY 21/6/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 6 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 95/2023/TLPT-HS ngày 09 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Thị Kim N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 23/2023/HS-ST ngày 04 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

- Bị cáo kháng cáo: NGUYỄN THỊ KIM N - Sinh ngày 19 tháng 9 năm:

1979; Tại: Bình Định; Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Thôn A, xã B, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn (chết) và bà Đoàn (còn sống); Có chồng là Nguyễn L và 02 con (con lớn 23 tuổi, con nhỏ 15 tuổi). Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Kim N là người giúp việc nhà cho chị Võ Thị Mỹ H.

Khoảng 19 giờ ngày 03/10/2022, N xin chị H nghỉ làm và mượn xe mô tô nhãn hiệu Grande BKS 75K1-300xx của chị H để về nhà N tại thôn A, xã B, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Do cần tiền trả nợ ngân hàng, khoảng 09 giờ 30 phút sáng ngày 04/10/2022, Nguyễn Thị Kim N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Grande BKS 75K1-300xx đi từ nhà N đến đường Minh Mạng, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng, để xe ở ngoài đường, rồi đi bộ đến cửa sau nhà chị H. Do N biết mật mã số khóa cửa sau nhà chị H nên N mở được khóa và đi vào nhà. Sau khi vào nhà, N tắt nguồn điện camera tại tầng 1, rồi đi lên tầng 2 phòng ngủ của chị H lấy trộm 01(một) Ipad pro và 01(một) con heo đất màu vàng tại bàn bên cạnh giường ngủ. Sau đó, N đến bàn trang điểm để mở hộp nữ trang của chị H lấy trộm 01(một) nhẫn kim loại màu vàng tên có đính các hạt chất màu trắng, 02 nhẫn kim loại màu trắng trên có đính hạt chất màu trắng, 01(một) lắc tay kim loại màu vàng dài 14,5cm, 01(một) sợi dây chuyền kim loại màu vàng dài 44cm, có mặt dây chuyền đính 03 hạt chất màu trắng. Sau khi lấy trộm được các tài sản trên, N đi xuống lại tầng 01(một) bật công tắt nguồn điện của camera rồi đi về lại Quảng Nam. Khi đến khu vực bãi đất trống đường Trường Sa và Võ Nguyên Giáp, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng, N đem con heo đất vừa trộm được ra đập và lấy 1.500.000 đồng (gồm 03 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng). Số tiền này N tiêu xài cá nhân hết.

Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Nguyễn Thị Kim N đến tiệm vàng Tân Vĩnh Hòa đường Trần Cao Vân, TP Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam bán cho chị Trần Thị N: 02 nhẫn kim loại màu vàng, 01(một) lắc tay kim loại màu vàng, 01(một) dây chuyền kim loại màu vàng trộm được với giá 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng). Trên đường về nhà, N làm mất số tiền 4.500.000 đồng (Bốn triệu năm trăm ngàn đồng) còn 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng) N đã tiêu xài cá nhân hết.

Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày 07/10/2022, N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Grande BKS 75K1-300xx đến tiệm cầm đồ Hồng Pháp, địa chỉ: số 211 đường Trần Cao Vân, TP Tam Kỳ, tình Quảng Nam do anh Phạm Hồng P làm chủ, cầm 01(một) Ipad pro màu đen đã trộm trước đó nhưng do máy không có mật khẩu và icloud nên anh Pháp nghi ngờ tài sản N đem cầm là tài sản trộm cắp nên không chịu cầm và chụp hình lại xe và đặc điểm nhận dạng của N. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, N đêm Ipad pro quay lại tiệm cầm đồ và nói đã mở được mật khẩu, yêu cầu cầm với giá 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng). Anh Pháp nghi ngờ và hỏi mua với giá 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) nhưng N không chịu và đi về.

Đến khoảng 14 giờ ngày 08/10/2022, N ra lại TP. Đà Nẵng thì nhận được thông tin về việc Công an phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng mời về làm việc liên quan đến vụ trộm cắp tài sản nhà chị H. Do sợ bị phát hiện, trên đường ra lại TP. Đà Nẵng, N đem giấu Ipad trộm được trước đó tại nghĩa địa thuộc Thôn 1, xã Bình Nam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam và ra lại nhà chị H làm việc với Công an phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng.

Qua truy xét, Công an phường Khuê Mỹ và Cơ quan CSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã thu hồi và tạm giữ tang vật, đồ vật, tài sản bao gồm:

- Của chị Nguyễn Thị Kim N giao nộp: 01(một) Ipad pro màu đen của chị Nguyễn Thị Kim N tại tổ 01 xã B, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam; 02 nhẫn kim loại màu trắng trên có đinh các hạt màu trắng; các mãnh vở màu vàng của con heo đất; 01(một) ĐTDĐ IQ00U3X màu xanh, số seri:9589639176001PV; số tiền 5.300.000 đồng (48 tờ mệnh giá 100.000 đồng, 01 tờ mệnh giá 500.000 đồng); 01(một) xe máy nhãn hiệu Grande màu xanh BKS 75K1-300.64; 01(một) áo khoát dài tay màu hồng.

- Của chị Nguyễn Thị Nin giao nộp: 01(một) nhẫn kim loại màu vàng, trên có đính hạt chất màu đen và màu trắng; 01 nhẫn kim loại màu vàng, trên có đính hạt chất màu trắng; 01(một) sợi dây chuyền kim loại màu vàng; 01 lắc tay kim loại màu vàng.

- Của anh Phạm Hồng P giao nộp: 01(một) đĩa DVD hình ảnh camera tại tiệm cầm đồ Hồng Pháp, địa chỉ số: 211 đường Trần Cao Vân, TP Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam vào thời gian 16 giờ 30 phút và 18 giờ 14 phút ngày 07/10/2022 có hình ảnh Nguyễn Thị Kim N đem Ipad đến cầm.

* Tại Kết luận giám định số 1514/KL-KTHS ngày 01/11/2022 của Phân viện KHHS tại TP. Đà Nẵng kết luận:

+ 01(một) nhẫn kim loại, màu vàng trên đính các hạt chất màu trắng: là hợp kim của vàng (Au), đồng (Cu), và bạc (Ag); hàm lượng của từng kim loại: vàng 61,0%; đồng 23,1%; bạc 15,9%; tổng khối lượng mẫu là 2,21 gam (tính cả khối lượng các hạt chất màu trắng);

+ 01(một) nhẫn kim loại, màu vàng trên có đính hạt chất màu đen và các hạt chất màu trắng: là hợp kim của vàng (Au), đồng (Cu) và bạc (Ag); hàm lượng của từng kim loại: vàng 61,0%; đồng 23,8%, bạc 15,2%; tổng khối lượng mẫu là 2,77 gam (tính cả khối lượng các hạt chất màu trắng);

+ 01(một) nhẫn kim loại màu trắng trên có đính hạt chất màu trắng: là hợp kim của vàng (Au), đồng (Cu), niken (Ni) và kẽm (Zn); hàm lượng của từng kim loại:

vàng 57,5%; đồng 23,8%; niken 11,8% và kẽm 6,9%; tổng khối lượng mẫu là 1,81 gam (tính cả khối lượng các hạt chất màu trắng);

+ 01(một) nhẫn kim loại, màu trắng trên có đính các hạt chất màu trắng: là hợp kim của bạc (Ag), đồng (Cu) và kẽm (Zn); hàm lượng của từng kim loại: bạc 90,9%; đồng 6,7%; kẽm 2,4%; tổng khối lượng mẫu là 3,17 gam (tính cả khối lượng các hạt chất màu trắng);

+ 01(một) lắc tay kim loại màu vàng, dài 14,5cm: là hợp kim của vàng (Au), đồng (Cu) và bạc (Ag); hàm lượng của từng kim loại: vàng 61,0%; đồng 25,5%; bạc 13,5%; tổng khối lượng mẫu là 1,66 gam (tính cả khối lượng các hạt chất màu trắng);

+ 01(một) sợi dây chuyền kim loại màu vàng, dài 44cm, mặt dây chuyền có đính 03 hạt chất màu trắng: là hợp kim của vàng (Au), đồng (Cu), và bạc (Ag); hàm lượng của từng kim loại: vàng 61,0%; đồng 24,9%; bạc 14,1%; tổng khối lượng mẫu là 2,63% (tính cả khối lượng các hạt chất màu trắng).

* Tại Kết luận giám định giá tài sản số 68/KL-HĐĐGTS trong TTHS UBND quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng ngày 21/11/2022 kết luận:

Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt của bị hại theo định giá là: 27.648.000 đồng (Hai mươi bảy triệu, sáu trăm bốn mươi tám ngàn đồng).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2023/HSST ngày 04/4/2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Về tội danh: Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Kim N phạm tội “Trộm cắp tài sản” Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s khoản1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Kim N 09 (chín) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 07/4/2023 bị cáo Nguyễn Thị Kim N có đơn kháng cáo với nội dung: Xin cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Thị Kim N giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo tại địa phương để có điều kiện làm ăn lo cho gia đình.

Đại diện VKS nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo N trong thời hạn luật định, nên đảm bảo hợp lệ theo trình tự phúc thẩm.

Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo N thừa nhận do cần tiền trả nợ vay cho Ngân hàng, nên khảng 9 giờ 30 phút ngày 04/10/2022 bị cáo đã lén lút đột nhập vào nhà của bà Võ Thị Mỹ H (là nhà nơi bị cáo làm công giúp việc) trộm cắp một số tài sản với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt được của người bị hại là: 27.648.000 đồng (Hai mươi bảy triệu, sáu trăm bốn mươi tám ngàn đồng).Vì vậy, Bản án hình sự sơ thẩm số: 23/2023/HSST ngày 04/4/2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng xét xử bị cáo về tội trộm cắp tài sản là có căn cứ, đúng pháp luật. Xét khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất vụ án, và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ tránh nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS qua đó xử phạt bị cáo N 09 (chín) tháng tù và cách ly bị cáo ra ngoài xã hội để răn đe đối với bị cáo là cần thiết. Tại phiên tòa cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới: Do đó đề nghị HĐXX căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 BLTTHS không chấp nhận kháng cáo của bị cáo giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm có đủ căn cứ để khẳng định: [1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị Kim N đã khai nhận Trong ngày 04/10/2022 bị cáo đã có hành vi lén lút đột nhập vào nhà của bà Võ Thị Mỹ H (là nhà nơi bị cáo làm công giúp việc) trộm cắp một số tài sản bằng vàng và 01 (một) con heo đất với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt được của người bị hại là: 27.648.000 đồng (Hai mươi bảy triệu, sáu trăm bốn mươi tám ngàn đồng). Vì vậy, Bản án hình sự sơ thẩm số: 23/2023/HSST ngày 04/4/2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo cho rằng về mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là nghiêm khắc, bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hoàn cảnh gia đình khó khăn, xin HĐXX cấp phúc thẩm xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo cải tạo tại địa phương để có điều kiện làm ăn lo cho gia đình.

[2]. Xét nội dung đơn kháng cáo của bị cáo N, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội, nên việc các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm khởi tố, điều tra, truy tố bị cáo ra trước pháp luật để xử lý là cần thiết; Mặt dù bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, song trước khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã theo dõi việc bị hại cất giấu tài sản, đồng thời nắm bắt về thời gian chủ nhà bà Hương (nơi bị cáo làm công giúp việc) đi vắng, trên cơ sở đó bị cáo sử dụng mật mã số khóa cửa nhà phía sau của bà Hương để mở cửa lén lút đột vào nhà tắc nguồn điện Camera tầng 1, lên tầng 2 đi vào phòng ngũ của bà Hương trộm cắp toàn bộ tài sản gồm nữ trang của chị H và tài sản khác, với tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt 27.648.000 đồng (Hai mươi bảy triệu, sáu trăm bốn mươi tám ngàn đồng), mặt khác sau khi lấy được tài sản, bị xuống lại tầng 1 bật công tất nguồn điện Camera khóa cổng nhà mang tài sản về Quảng Nam bán lấy tiền tiêu xài, nhằm mục đích trốn tránh sự phát hiện của chủ nhà, điều đó thể hiện việc bị cáo thực hành vi phạm tội là có chủ định từ trước đó. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt tù có thời hạn và cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội là cần thiết. Xét thấy, khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất vụ án, cũng như hành vi phạm tội à giá trị tài sản mà bị cáo gây ra cho bị hại, đồng thời cũng đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng theo quy định của pháp luật, qua đó xử phạt bị cáo mức hình phạt 09 (chín) tháng tù là phù hợp, không nặng. Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới, Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo N giữ nguyên Bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tại phiên tòa là phù hợp.

[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4]. Bị cáo N phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;

1.1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Kim N, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

2. Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Kim N: 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

3.Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Thị Kim N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

4.Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

76
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (Ipad pro) số 104/2023/HS-PT

Số hiệu:104/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về