TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 127/2021/HS-ST NGÀY 10/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 10 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 119/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 11 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 126 /2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Mạnh Th, sinh năm 1988.
Nơi cư trú: thôn B, xã Ng, huyện Đ, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; con ông: Không xác định được, bà Nguyễn Thị Ng; vợ, con: chưa có; nhân thân: Ngày 29/7/2005 bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh T xử phạt 01 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”; (chấp hành xong hình phạt và án phí). Ngày 28/12/2010 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 8, thành phố H Quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh trong thời hạn 24 tháng. Ngày 27/8/2013 bị Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh trong thời hạn 24 tháng (đã thi hành xong).
Tiền án: 02 tiền án.
Bản án số 48 ngày 22/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh T xử phạt Nguyễn Mạnh Th 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/7/2018.
Bản án số 142 ngày 22/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Th, tỉnh T xử phạt Nguyễn Mạnh Th 01 năm 09 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/01/2021.
Tiền sự: 01 tiền sự, Quyết định số 20 ngày 15/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái bình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 24 tháng (chưa thi hành); bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21-9-2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh T (có mặt).
Bị hại: Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1966 (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bị hại: Anh Dương Văn Đ, sinh năm 1988 (anh Đ là cháu bà T), (vắng mặt).
Đều trú tại: thôn H, xã H, huyện H, tỉnh T.
Người làm chứng:
1. Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1972 (vắng mặt).
2. Chị Vũ Thị Ch, sinh năm 1960 (vắng mặt).
3. Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1955 (vắng mặt).
Đều trú tại: thôn H, xã H, huyện H, tỉnh T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ ngày 19-9-2021, Nguyễn Mạnh Th điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu sơn nâu, biển kiểm soát 16M5-xxxx từ nhà đến địa phận huyện H, mục đích xem có ai sơ hở trong việc quản lý tài sản thì trộm cắp. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, T đến khu vực nhà bà Nguyễn Thị Thanh T, trú tại thôn H, xã H, huyện H, quan sát thấy cổng nhà khóa, không có ai ở nhà, T để xe ở ngoài đường, trèo qua tường vào trong vườn nhà bà T nhìn thấy có 02 chuồng gà (một chuồng nhốt 07 con gà và một chuồng có nhốt 05 con gà). Th lấy 01 bao tải màu đỏ cam ở gần đó và vào chuồng nhốt 07 con gà để bắt (04 con gà trống, 03 con gà mái), đều là loại gà ba máu có màu trắng, đen, vàng bỏ vào trong bao tải, dùng tay túm miệng bao và trèo tường đem ra bên ngoài. T vừa trèo ra bên ngoài thì bị anh Dương Văn Đ phát hiện và bắt giữ. Anh Đ cùng một số người dân đưa Th cùng bao tải bên trong có 07 con gà đến trụ sở Công an xã H, huyện H giao cho Công an xã giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 42 ngày 21/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện H kết luận: 04 con gà trống, loại gà ba máu, đều có màu trắng đen vàng, tổng khối lượng 7,2 kg và 03 con gà mái, loại gà ba máu, đều có màu trắng đen vàng, tổng khối lượng 5,8 kg tại thời điểm bị xâm hại có giá trị thành tiền là 975.000 đồng.
Bản cáo trạng số 130/CT-VKSHH ngày 22-11-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh T truy tố bị cáo Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Th khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Th và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Th mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 21-9-2021.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà T ủy quyền cho anh Dương Văn Đ đã nhận lại tài sản là 7 con gà, bà không yêu cầu bị cáo phải bồi thường, nên không xem xét giải quyết.
Vật chứng của vụ án: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bao tải màu đỏ cam, đã qua sử dụng. Bị cáo Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Th không tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Bị hại, người đại diện theo ủy quyền của bị hại và người làm chứng, đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến phiên toà nhưng vắng mặt. Xét thấy tại giai đoạn điều tra, họ đã có lời khai đầy đủ nên việc vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến việc xét xử, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản vụ việc (bút lục từ số 01 đến số 02); biên bản quản lý đồ vật tài sản (bút lục số 57); Bản kết luận định giá tài sản số 42 ngày 21/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện H (bút lục số 26); biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường ngày 19/9/2021 (bút lục số 21 đến số 24); bản tường trình của bị hại bà Nguyễn Thị Thanh T (bút lục số 74); biên bản ghi lời khai của người đại diện theo ủy quyền của bị hại anh Dương Văn Đ (bút lục từ số 78 đến số 83); biên bản ghi lời khai của người làm chứng bà Nguyễn Thị V, bà Vũ Thị Ch và bà Nguyễn Thị C (bút lục từ số 88 đến số 99). Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 19/9/2021, Nguyễn Mạnh Th là người đã có tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích có hành vi trộm cắp 07 con gà (04 con gà trống, 03 con gà mái) đều là loại gà ba máu có màu trắng, đen,vàng; tổng khối lượng là 13kg trị giá 975.000 đồng của bà Nguyễn Thị Thanh T ở thôn H, xã H, huyện H. Hành vi bị cáo Th thực hiện đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Điều 173. Tội trộm cắp tài sản “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) ...
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) ...
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”
[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi vi phạm của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội nơi địa phương xảy ra tội phạm. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức và điều khiển hành vi của mình, bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo bị áp dụng một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo khai báo thành khẩn, bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn, đây là những tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự. Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy cần phải tiếp tục cách ly bị cáo khỏi cuộc sống xã hội trong một thời gian nhất định, mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo nói riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Nguyễn Thị Thanh T đã nhận lại tài sản là 07 con gà, bà T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Do vậy về trách nhiệm dân sự không xem xét giải quyết.
[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: 01 bao tải màu đỏ cam, đã qua sử dụng là vật chứng không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu sơn nâu, biển kiểm sát 16M5-xxxx, đã qua sử dụng, Nguyễn Mạnh Th mua của một người không rõ tên tuổi địa chỉ ở huyện Q, tỉnh T với giá 1.000.000 đồng từ tháng 6 năm 2021, không có giấy tờ xe và giấy tờ mua bán xe. Tại bản kết luận giám định số 109 ngày 30/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: “Tại thời điểm giám định xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu sơn nâu, đeo biển kiểm soát 16M5-xxxx. Trên khung xe không thấy chữ, chữ số đóng chìm. Chữ, chữ số nguyên thủy không đủ điều kiện kết luận. Hàng chữ, chữ số GEE - 1007797 đóng trên thân máy không bị tẩy xóa, sửa chữa, đục lại”. Do chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe trên nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã tách ra để tiếp tục xác minh xử lý sau.
[7] Bị cáo Th phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Từ các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Mạnh Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh Th 01 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 21-9-2021.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bao tải màu đỏ cam, đã qua sử dụng (vật chứng trên hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh T quản lý).
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14; bị cáo Th phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Th có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại bà T vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản (gà ba máu) số 127/2021/HS-ST
Số hiệu: | 127/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về