Bản án về tội trộm cắp tài sản (dây chuyền vàng) số 15/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LÁT, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 15/2021/HS-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27/04/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2021/QĐXXST-HS ngày 16/04/2021 của Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, đối với bị cáo:

Họ và tên: Vi Văn Đ , sinh năm 2001. Quê quán: và nơi cư trú: Bản S, xã Q, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Trồng trọt. Trình độ học vấn: 9/12.

Con ông: Vi Văn S , sinh năm 1972; Con bà: Lương Thị S , sinh năm 1974. Bố mẹ bị cáo sinh được 03 người con, bị cáo là con thứ 03 trong gia đình.

Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 20/01/2021 chuyển tạm giam ngày 23/01/2021 tại trại tạm giam công an tỉnh Thanh Hóa đến nay, có mặt tại phiên tòa

Người bị hại: Lương Thị S , sinh năm 1974 trú tại Bản S, xã Q, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hà Văn K - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý số 1, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ ngày 19/12/2020, bị cáo lợi dụng lúc bố mẹ không có nhà đã lấy chìa khóa tủ của mẹ để trong túi áo rồi mở tủ cá nhân của gia đình lấy trộm dây chuyền vàng số lượng 04 (bốn) chỉ, loại vàng 24k, sau khi lấy được số vàng này bị cáo bắt xe khách đến tiệm vàng Hằng Nghệ ở Khu phố 2, thị trấn Mường Lát, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa bán với giá 20.800.000đ (hai mươi triệu tám trăm nghìn đồng). Số tiền bán vàng bị cáo đã mua một điện thoại OPPO loại A93 giá 7.400.000đ (bảy triệu bốn trăm nghìn đồng) tại cửa hàng điện thoại Minh Phượng ở Khu 2, thị trấn Mường Lát, huyện Mường Lát. Bị cáo cho vợ chồng Phạm Bá Hoàng 3.000.000đ (Ba triệu đồng) ăn tết và nhờ anh Hoàng cầm hộ số tiền là 5.000.000đ (năm triệu đồng), vợ anh H là chị Vi Thị H, sinh năm 2001 cầm hộ số tiền là 2.500.000đ (hai triệu năm trăm nghìn đồng), anh Hoàng và chị Huế cùng trú tại: Khu 3, thị trấn Mường Lát, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa nhưng sau đó bị cáo đã lấy lại và sử dụng chi tiêu ăn, uống hết. Ngày 18/01/2021 bị cáo đến Công an huyện Mường Lát đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình. (bút lục số: 03-04;44-52) Tại Bản kết luận định giá tài sản số 11/KL-ĐGTS, ngày 25 tháng 01 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Mường Lát kết luận:

“ 01 (một) dây chuyền vàng có số lượng 04 (bốn) chỉ vàng, loại vàng 24K, mua tại thị trấn Mường Lát, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa vào năm 2017 với số tiền là: 18.000.000 đồng (mười tám triệu đồng). Tại thời điểm 19/12/2020 có giá trị: 21.700.000 đồng (Hai mươi mốt triệu, bảy trăm nghìn đồng).

Tổng giá trị tài sản bị xâm hại là: 21.700.000 đồng.

Số tiền bằng chữ: Hai mươi mốt triệu, bảy trăm nghìn đồng”(bút lục số: 57)

Quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, các tài liệu và chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bị hại trong vụ án là chị: Lương Thị S , sinh năm 1974 trú tại Bản S, xã Q, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa. Tại phiên Tòa, bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không xem xét về vấn đề dân sự trong vụ án.

Bản cáo trạng số 17/CT-VKS-ML ngày 31/03/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 BLHS.

Lời luận tội của đại diện VKS tham gia phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng: Điều 38; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 173 BLHS.

+ Về tội danh: Tuyên bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”

+ Về hình phạt: Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo từ 06 đến 08 tháng tù giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

+ Về án phí: Xem xét theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của người bào chữa: Người bào chữa đồng tình với quan điểm truy tố của đại diện VKS về tội danh và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, điều luật áp dụng và khung hình phạt đại diện VKS đề nghị đối với bị cáo. Cho rằng bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên đề nghị HĐXX áp dụng điều 54 BLHS xem xét cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, xử bị cáo một mức án thấp nhất của hung hình phạt và miễn án phí, miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Ý kiến của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo nhận tội, đồng tình với lời bào chữa, không thay đổi, bổ sung thêm gì làm thay đổi nội dung vụ án, không có ý kiến tranh luận với đại diện VKS. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo một mức án thấp nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Lát, Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố. Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đồng ý với ý kiến của người bào chữa và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Chứng cứ xác định có tội, không có tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản, ngày 19/12/2020 đã trộm một dây chuyền vàng số lượng 04 (bốn) chỉ, loại vàng 24k, theo kết luận định giá trị tài sản lúc bị xâm hại là 21.700.000 đồng đã phạm tội trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS 2015.

Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, người chứng kiến, ý kiến của người bào chữa và chứng cứ khác trong hồ sơ đủ cơ sở khẳng định bị cáo phạm tội Trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi trộm cắp của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội và xâm phạm đến quyền quản lý, bất khả xâm phạm tài sản của cá nhân, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có năng lực chịu tránh nhiệm hình sự, biết việc làm của mình là vi phạm pháp luật bị cộng đồng xã hội lên án vẫn cố tình thực hiện nhằm thỏa mãn nhu cầu, mục đích của bản thân.

- Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại các cơ quan tố tụng cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đi đầu thú nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự, như đề nghị của Kiểm sát viên và người bào chữa cho bị cáo là phù hợp.

[4] Về hình phạt: Với tính chất của vụ án, xét nhân thân và hành vi phạm tội của bị cáo, HĐXX thấy nên xét xử bị cáo một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội để làm bài học cho kẻ khác đang có ý đồ phạm tội.

[5] Xét về vật chứng trong vụ án: Tang vật của vụ án là một dây chuyền vàng số lượng 04 (bốn) chỉ, loại vàng 24k. Bị cáo đã bán và tiêu sài hết tiền.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên HĐXX không xem xét.

[7]. Vác vấn đề khác:

Đối với Đỗ Viết N , chủ tiệm vàng H N , khi mua dây chuyền vàng với bị cáo, ông N không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có nên không xử lý ông Nghệ về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Đối với Phạm Bá H và Vi Thị H : Khi nhận tiền từ bị cáo, anh H , chị H không biết nguồn gốc số tiền đó là do bị cáo trộm cắp tài sản mà có, đồng thời đã đưa lại hết cho bị cáo nên không có căn cứ xử lý.

Đối với Nguyễn Thị P : Khi bán điện thoại cho bị cáo, chị P không biết nguồn gốc số tiền đó là do bị cáo trộm cắp tài sản bán mà có nên không có căn cứ xử lý.

[8]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Vi Văn Đ phạm tội: “Trộm cắp tài sản

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điều 50; Điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Xử phạt: Vi Văn Đ 08 (Tám) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày tạm giữ (18/01/2021).

Không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về án phí: Áp dụng: Khoản 2 điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Tuyên: Bị cáo được miễn tiền án phí HSST.

Quyền kháng cáo, kháng nghị: Căn cứ Điều 331, Điều 333 và Điều 337 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Án xử công khai, có mặt bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người bị hại. Bị cáo có, người bị hại quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (dây chuyền vàng) số 15/2021/HS-ST

Số hiệu:15/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Lát - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về