TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 78/2024/HS-ST NGÀY 08/04/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN (CHƯA ĐẠT)
Ngày 08 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 75/2024/TLST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2024/QĐXXST- HS ngày 26 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:
HTT (tên gọi khác: Đ), sinh năm 1989 tại ST; thường trú: Ấp XM2, thị trấn PL, huyện TT, tỉnh ST; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông HN, sinh năm 1965 và bà LTC (đã chết); tiền án: Bản án số 89/2020/HSST ngày 14/4/2020 bị Toà án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 04 năm tù về tội Cướp giật tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/02/2023; tiền sự: Không; nhân thân:
+ Bản án số 211/2009/HSST ngày 16/7/2009 bị Tòa án nhân dân huyện (nay là thành phố) Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Cướp giật tài sản (chưa đat). Tổng hợp hình phạt 03 năm 06 tháng tù của bản án số 19/2009/HSST ngày 20/01/2009 của Toà án nhân dân huyện (nay là thành phố) Dĩ An, tỉnh Bình Dương thành hình phạt chung là 06 năm tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/8/2011.
+ Quyết định 103/QĐ-UB ngày 04/01/2012 Uỷ ban nhân dân thị xã (nay là thành phố) Dĩ An ra áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc, chấp hành xong ngày 27/8/2013.
+ Quyết định số 16/QĐ-TA ngày 25/12/2018 Toà án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương ra Quyết định áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, chấp hành xong ngày 22/11/2023.
bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22/11/2023, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông LVT1, sinh năm 1980; thường trú: KP1, phường BC, thành phố TĐ, Thành phố HCM; trú tại: 50G3 khu dân cư VP1, khu phố PH, phường VP, thành phố TA, tỉnh BD, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông TXH, sinh năm 1982; thường trú: Thôn 3, xã YT, huyện YĐ, tỉnh TH; tạm trú: 8/6/9 khu phố ĐA2, phường BH, thành phố TA, tỉnh B, vắng mặt.
+ TTKD, sinh năm 1970; thường trú: 34/9 khu phố TP2, phường TB, thành phố DA, tỉnh BDg, vắng mặt.
- Người làm chứng:
+ LVB, vắng mặt.
+ TXY, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
HTT không có nghề nghiệp ổn định, không có tiền tiêu xài nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài. Thực hiện ý định, khoảng 17 giờ 00 phút ngày 22/11/2023 Tâm chuẩn bị 01 cây đoản chữ T bằng kim loại giấu trong người rồi đi xe ôm từ chợ Dĩ An 2 thuộc phường An Bình, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đến khu dân cư Vĩnh Phú 1 thuộc khu phố Phú Hội, phường Vĩnh Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương tìm tài sản trộm cắp. Đến khoảng 18 giờ 35 phút cùng ngày, Tâm đi đến trước căn nhà số 50G3 khu dân cư Vĩnh Phú 1 thuộc khu phố Phú Hội, phường Vĩnh Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương của ông VLT1 phát hiện 01 xe mô tô hiệu Honda, kiểu dáng Future màu đen, biển số 61D1 – X dựng phía trong sân của căn nhà không có người trông coi, đồng thời cửa cổng của căn nhà không khoá nên T lén lút đi vào bên trong rồi dùng đoản chữ T bẻ khoá xe mô tô, lúc này T đưa đầu dẹp của đoản vào ổ khoá nhưng chưa vặn khởi động được xe mô tô thì bị ông T1 phát hiện nên truy hô T bỏ chạy và bị người dân đuổi theo bắt giữ, sau đó trình báo đến Công an phường Vĩnh Phú tiếp nhận xử lý.
Tang vật, tài sản tạm giữ:
- 01 xe mô tô hiệu Honda, kiểu dáng Future màu đen, biển số 61D1 – X, số máy JC5453144729, số khung RLHJC5372EZ050841 - 01 cây đoản bằng kim loại chữ T có 01 đầu dẹp được quấn bằng keo đen trên thân.
Căn cứ Biên bản định giá tài sản và Kết luận định giá tài sản ngày 30/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thuận An xác định: 01 xe mô tô hiệu Honda, kiểu dáng Future màu đen, biển số 61D1 – X, số máy JC5453144729, số khung RLHJC5372EZ050841 có trị giá 14.000.000 đồng.
Cáo trạng số 75/CT-VKS-TA ngày 18 tháng 3 năm 2023 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo HTT về “Tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội trộm cắp tài sản như cáo trạng đã truy tố, bị cáo chưa chiếm đoạt được xe thì bị người dân phát hiện tri hô, bắt giữ. Bị cáo đã không thực hiện được hết các hành vi cần thiết để thực hiện hành vi phạm tội do các yếu tố khách quan, ngoài ý muốn của bị cáo nên bị cáo chưa chiếm đoạt được tài sản. Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt và bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội chưa đạt theo quy định; phân tích tính chất, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 15; Điều 57; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đề xuất xử phạt Hứa Thanh Tâm mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù x ¾ = 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda, kiểu dáng Future màu đen, biển số 61D1 – X, số máy JC5453144729, số khung RLHJC5372EZ050841 quá trình điều tra xác định thuộc quyền sở hữu của ông TXH, ông H trình bày ông là nhân viên của ông LVT1. Vào ngày 22/11/2023 ông H điều khiển xe mô tô biển số 61D1-X đến nhà ông T1 để gửi xe mô tô rồi lấy xe của ông T1 đi làm công trình thì bị bị cáo HTT lén lút trộm cắp nên cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Thuận An đã trả lại xe mô tô cho ông H là có căn cứ. Ông H đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì khác.
Về xử lý vật chứng: Đối với 01 cây đoản bằng kim loại chữ T có 01 đầu dẹp được quấn bằng keo đen trên thân là công cụ thực hiện hành vi phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu huỷ.
- Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.
- Ý kiến bị hại: Không yêu cầu bồi thường và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Ý kiến người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông H trong quá trình điều tra:
Không có yêu cầu gì.
- Ý kiến người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà D trong quá trình điều tra:
Không có yêu cầu gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị cáo HTT khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố bị cáo trước Tòa. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo, những người tham gia tố tụng khác tại Cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ 35 phút ngày 22/11/2023, tại trước địa chỉ 50G3 khu dân cư Vĩnh Phú 1, khu phố Phú Hội, phường Vĩnh Phú, thành phố Thuận An, Bình Dương, bị cáo HTT đã có hành vi dùng cây đoản bằng kim loại hình chữ T để lén lút chiếm đoạt tài sản là 01 xe mô tô hiệu Honda, kiểu dáng Future màu đen, biển số 61D1 – X, số máy JC5453144729, số khung RLHJC5372EZ050841 của ông LVT1 trị giá 14.000.000 đồng nhưng chưa di chuyển xe khỏi vị trí, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “trộm cắp tài sản (chưa đạt)”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị xử lý nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi, muốn có tài sản sử dụng không phải bằng sức lao động của mình nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bất chấp hậu quả và pháp luật. Do đó cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4]. Về nhân thân, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu - Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Mức đề nghị hình phạt của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đối với bị cáo Hứa Thanh Tâm là phù hợp nên chấp nhận.
[5]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường nên không xem xét.
[6]. Về xử lý vật chứng: Đối với 01 cây đoản bằng kim loại chữ T có 01 đầu dẹp được quấn bằng keo đen trên thân là công cụ thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu tiêu huỷ [7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 173; Điều 15, Điều 47, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Điều 106 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo HTT phạm tội “Trộm cắp tài sản (chưa đạt)”.
Xử phạt bị cáo HTT 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/11/2023.
2. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy 01 cây đoản bằng kim loại hình chữ T có một đầu dẹp được quấn băng keo đen trên thân (theo biên bản giao nhận vật chứng tài sản ngày 18/3/2024).
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/3/2024.).
3. Về án phí: Buộc bị cáo HTT phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản (chưa đạt) số 78/2024/HS-ST
Số hiệu: | 78/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về