Bản án về tội trộm cắp tài sản, chứa chấp và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 06/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 06/2020/HS-PT NGÀY 03/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN, CHỨA CHẤP VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 03 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 05/2020/TLPT-HS ngày 16 tháng 01 năm 2020 do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Đình T, Nguyễn Đông T1,Nguyễn T1 N, Nguyễn Duy T2 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 13/2019/HS-ST ngày 08/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Sông H, tỉnh Phú Yên.

- Các Bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Đình T(tên gọi khác: Ròm), sinh năm 1995; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Thôn Tân A, xã Suối B, huyện Sơn H, tỉnh Phú Yên; Nghề nghiệp: Làm nông;trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Đình L, sinh năm 1965 và bà Phạm Thị H, sinh năm 1969; tiền án: -Ngày 03/12/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Sông H xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; -Ngày 31/7/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Sông H, tỉnh Phú Yên xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: Ngày 26/4/2013, bị Công an xã Suối B, huyện Sơn H xử phạt hành chính 2.000.000 đồng về hành vi “Cản trở người thi hành công vụ”, chưa nộp phạt; nhân thân: Ngày 25/3/2019, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông P, tỉnh Gia Lai khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản”; bắt khẩn cấp, tạm giam từ ngày 27/11/2018 đến ngày 25/4/2019 thay đổi bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

2. Nguyễn Đông T1 (tên gọi khác: Mèo), sinh năm 1993; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Khu phố 4, thị trấn Hai R, huyện Sông H, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa(học vấn): 09/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1956 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1959; có vợ Trần Thị Xuân T, sinh năm 1996 và 01 con sinh năm 2018; tiền án: Không; tiền sự: - Ngày 28/01/2013, bị Công an thị trấn Hai R, huyện Sông H phạt hành chính 1.500.000đồng về hành vi “Cố ý gây thương tích”; - Ngày 22/4/2016, bị Công an thị trấn Hai R, huyện Sông H phạt hành chính 750.000đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; - Ngày 23/8/2016, bị Công an thị trấn Hai R, huyện Sông H phạt hành chính 300.000đồng về hành vi “Gây mất trật tự khu dân cư”; bắt khẩn cấp, tạm giam từ ngày 24/11/2018 đến ngày 07/12/2018 thay đổi bằng biện pháp cho bảo lĩnh; có mặt.

3. Nguyễn Thành N(tên gọi khác: Bi), sinh năm 1985; tại tỉnh Khánh Hòa. Nơi cư trú: Thôn Dầu S, xã Suối T, huyện Cam L, tỉnh Khánh Hòa;nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; giới tính: Nam;quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Đức Đ, sinh năm 1961 và bà Trần Thị T, sinh năm 1961; có vợ Huỳnh Thị T, sinh năm 1990 và 01 con sinh năm 2015;tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: - Ngày 30/5/2007, bị Tòa án nhân dân thị xã Cam R, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 18 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; - Ngày 15/6/2005, bị Công an khu công nghiệp Suối D, huyện Cam Lxử phạt vi phạm hành chính 100.000đồng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”; - Ngày 15/8/2005, bị Công an xã Suối D, huyện Cam L xử phạt vi phạm hành chính 50.000đồng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”; - Ngày 09/6/2006, bị Công an xã Suối T, huyện Cam Lxử phạt vi phạm hành chính 100.000đồng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”; - Ngày 10/6/2006, bị Công an khu công nghiệp Suối D, huyện Cam L xử phạt vi phạm hành chính 100.000đồng về hành vi “Công nhiên chiếm đoạt tài sản”; - Ngày 31/5/2019 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công huyện Krông P, tỉnh Gia Lai khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo tại ngoại; có mặt.

4. Nguyễn Duy T2, sinh năm 1981; tại tỉnh Khánh Hòa. Nơi cư trú: Thôn Tân Y, xã Ea L, huyện Sông H, tỉnh Phú Yên;nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa(học vấn): 9/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trà X (đã chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1954; có vợ Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm 1987 và 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2019;tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 29/11/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Sông H xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”; ngày 22/5/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại vì có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm; bị cáo tại ngoại; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Trần Minh C bị xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo Lê Thanh N (tên gọi khác: Nhí) bị xét xử về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” nhưng không có kháng cáo, không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ tháng 8 đến tháng 11 năm 2018, trên địa bàn huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên, Trần Minh C và đồng phạm đã thực hiện 08 vụ trộm cắp tài sản; cụ thể:

Vụ thứ nhất: Ngày 15/8/2018, Trần Minh C đến nhà Nguyễn Thanh M, sinh năm 1991, trú tại khu phố 4, thị trấn Hòa Vinh, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên; rủ Mỹ đến nhà Nguyễn Đông T1 ở khu phố 8, thị trấn Hai R, huyện Sông H, tỉnh Phú Yên chơi. Khoảng 01 giờ ngày 16/8/2018 khi đi đến buôn T, thị trấn Hai R, huyện Sông H, thấy xe mô tô hiệu Sirius, biển số 78M1-059.51 của KPắ Y H dựng trước sân nhà, không có người trông coi, C dùng vam phá khóa trộm cắp xe mô tô của Y H đem về nhà T1 nhờ T1 bán dùm, T1 biết xe do C trộm cắp nhưng vẫn đồng ý tiêu thụ, ngày 16/8/2018, T1 đem bán cho đối tượng tên H ở Đắk Lắk (không rõ họ, địa chỉ) được 3.000.000đồng, C sử dụng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ 2: Khoảng 02 giờ ngày 03/9/2018, C đến buôn Thứ, xã Ea B, huyện Sông H, thấy xe môtô hiệu Sirius, biển số 78R1-1510 của anh Ksor H1 dựng dưới nhà sàn, C dùng vam phá khóa trộm cắp xe mô tô của anh Hét đem cất giấu, sau đó chạy về nhà Nguyễn Đông T1 thỏa thuận giao xe cho T1 cấn trừ nợ số tiền 3.000.000đồng, T1 biết rõ xe do C trộm cắp mà có nhưng vẫn đồng ý tiêu thụ, T1 cho em gái là Nguyễn Thị Thu H sử dụng làm phương tiện đi lại. Cơ quan Điều tra phát hiện thu giữ xe mô tô trả lại cho anh H1.

Vụ thứ ba: Khoảng 19h ngày 27/10/2018, C đến buôn Bưng A, xã Ea L, huyện Sông H, lén lút cạy cửa đột nhập vào quán tạp hóa anh Nguyễn Văn H lấy 10.000.000đồng, 05 cây thuốc lá hiệu COTAB, 01 cây thuốc lá hiệu Jet, 02 cây thuốc lá hiệu White Horse; 01 đèn pin hiệu G8, 01 điện thoại di động hiệu OPPO-F1 Plus đã bị hỏng. C đem đèn pin và điện thoại bán cho một đối tượng không rõ họ tên, địa chỉ được 500.000đồng, thuốc lá và tiền C sử dụng hút và tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ tư: C điện thoại rủ Nguyễn Đình Tđi trộm cắp, T đồng ý. Khoảng 02 giờ ngày 07/11/2018, CcùngT đến khu phố 1, thị trấn Hai R, huyện Sông H, T đứng ngoài cảnh giới, C đột nhập vào quán tạp hóa của chị Thái Thị Mỹ Tiếp trộm cắp 01 tượng phật di lặc bằng gỗ hương, 03 cây thuốc lá hiệu COTAB, 02 cây thuốc lá hiệu White Horse, 01 cây thuốc lá hiệu 555. C và T đem tượng phật đến gửi tại nhà Nguyễn Đông T1, sau đó cho T1 sử dụng, thuốc lá C và T sử dụng. T1 biết rõ tượng phật do C trộm cắp mà có nhưng vẫn chứa chấp. Cơ quan Điều tra phát đã thu giữ tượng Phật trả lại cho chị Tiếp.

Vụ thứ năm: Khoảng 02 giờ ngày 11/11/2018, CcùngT đến Buôn Lê D, thị trấn Hai R, huyện Sông H,thấy xe mô tô YAMAHA- Exciter 150, biển số 78M1-085.96 của anh Nay Y Doanh dựng trước cửa nhà sàn anh Nay Y V, T đứng ngoài cảnh giới, C dùng vam phá khóa trộm xe của anh D chạy về nhà T1, T gửi xe của C tại nhà T1, C điều khiển xe trộm được chở T chạy vào thôn Dầu S, xã Suối T, huyện Cam L, tỉnh Khánh Hòa nhờ Nguyễn Duy T2 môi giới bán cho Nguyễn Thành N 9.000.000đồng cùng nhau tiêu xài. T2 và N biết rõ xe do C và T trộm cắp mà có nhưng vẫn tiêu thụ. Sau khi bị phát hiện T đã tích cực hợp tác với Cơ quan Điều tra thu hồi xe mô tô 78M1-085.96 trả lại cho người bị hại.

Vụ thứ sáu: Khoảng 01 giờ 30 ngày 20/11/2018, CcùngT đến Buôn Dành B, xã Ea B, huyện Sông H, thấy xe mô tô YAMAHA-Sirius, biển số 78H8-0431 của anh Ha Ra Y K dựng bên hông nhà, T cảnh giới, C dùng vam phá khóa trộm xe của anh K chạy khoảng 01km thấy xe cũ không tiêu thụ được nên vứt bỏ. Cơ quan Điều tra đã thu hồi xe trả lại cho người bị hại Vụ thứ bảy: Khoảng 02 giờ ngày 20/11/2018, C cùngT đến buôn Krông, xã Ea Bia, huyện Sông H, T cảnh giới, C vào nhà chị Hờ R dùng vam phá khóa trộm cắp xe mô tô YAMAHA- Exciter, biển số 78M1-064.03 của chị Hờ R để dưới nhà sàn dùng băng keo đen dán thay đổi biển số, sau đó C điện thoại cho Nguyễn Như Đ chở Lê Thanh N đến, C giao xe cho N đem về T1 phố Tuy Hòa tiêu thụ, Nam biết rõ xe do C và T trộm cắp mà có nhưng vẫn đồng ý tiêu thụ, trong thời gian chuẩn bị tiêu thụ Cơ quan Điều tra phát hiện thu hồi xe trả lại cho chị Hờ R.

Vụ thứ tám: Khoảng 04 giờ ngày 20/11/2018, C cùngT tiếp tục đến khu phố 7, thị trấn Hai R, huyện Sông H, T làm nhiệm vụ cảnh giới, C đột nhập vào nhà anh Nguyễn Thanh Hải bắt trộm 03 con gà đá đem đến nhà Nguyễn Đông T1 gửi. Khoảng 08 giờ cùng ngày vụ việc bị phát hiện, C nhờ T1 đem 03 con gà đá trả lại cho anh Hải.

Tại các bản Kết luận định giá tài sản số 34 ngày 30-8-2018, số 40,41 ngày 27- 11-2018, số 46,47,48 ngày 05-12-2018, số 49 ngày 07-12-2018, số 03 ngày 17-01- 2019 và số 06 ngày 30-01-2019 của Hội đồng định giá huyện Sông Hinh kết luận: Xe mô tô biển số 78M1-059.51 trị giá 12.000.000đồng; xe mô tô 78R1-1510 trị giá 8.000.000đồng, 08 cây thuốc lá Cotab trị giá 768.000đồng, 01 cây thuốc lá hiệu Jet trị giá 180.000đồng; 04 cây thuốc lá hiệu White Horse trị giá 830.000đồng; 01 cây thuốc lá hiệu 555 trị giá 270.000đồng; 01 đèn pin trị giá 50.000đồng; 01 điện thoại OPPO trị giá 700.000đồng; 01 tượng phật di lặc bằng gỗ hương trị giá 7.000.000đồng; xe môtô 78M1-085.96 trị giá 35.000.000đồng; xe mô tô 78M1-064.03 trị giá 25.500.000đồng; xe môtô 78H8-0431 trị giá 9.500.000đồng và 03 con gà đá trị giá 6.000.000đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 13/2019/HS-ST ngày 08/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên đã xử phạt:Nguyễn Đình T03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm b,c Khoản 2 Điều 173; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm g, h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; Nguyễn Đông T1 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Chứa chấp và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Khoản 1 Điều 323; Điểm s Khoản 1 Điều 51,Điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; Nguyễn Thành N 09 (chín) tháng tù, Nguyễn Duy T2 06 (sáu) tháng tù cùng về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Khoản 1 Điều 323; Điểm s (Tân còn thêm Điểm t) Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn phạt Trần Minh C 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Lê Thanh N 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”,tuyên phần trách nhiệm bồi thường dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 21/10/2019, bị cáo Nguyễn Đình T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 15 và ngày 21/10/2019, các bị cáo Nguyễn Đông T1, Nguyễn Duy Tân, Nguyễn Thành Nhân đều kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa, các bị cáoNguyễn Đình T,Nguyễn Đông T1, Nguyễn Duy Tân, Nguyễn Thành Nhân vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm đã tuyên.

Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo – Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các bị cáo không tranh luận, tiếp tục xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo Nguyễn Đình T, Nguyễn Đông T1,Nguyễn T1 Nhân, Nguyễn Duy Tân tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm đều phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của các bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng nghị Trần Minh C, Lê Thanh N, những người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, các Kết luận định giá tài sản,cùng các tài liệu là chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:Từ tháng 8 đến tháng 11 năm 2019, trên địa bàn huyện Sông H, tỉnh Phú Yên.Nguyễn Đình Tđã tham gia cùng với Trần Minh Cthực hiện 05 vụ trộm cắp, chiếm đoạt tài sản có tổng giá trị83.958.000 đồng; bản thân T không có nghề nghiệp ổn định, lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống, lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính. Còn Nguyễn Đông T1, Nguyễn Thành N, Nguyễn Duy T2biết rõ tài sản do Nguyễn Đình T và Trần Minh C trộm cắp mà có nhưng vẫn chứa chấp, tiêu thụ, cụ thể:Nguyễn Đông T1 tiêu thụ 01 xe mô tô Sirius biển số 78M1-059.51, 01 tượng phật bằng gỗ hương, chứa chấp 03 con gà đá; Nguyễn Duy T2 giới thiệu để Nguyễn Thành N tiêu thụ01 xe mô tô Exciter 150 biển số 78M1-085.96. Do đó, cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử bị cáo Nguyễn Đình T về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm b,c Khoản 2 Điều 173;bị cáo Nguyễn Đông T1 về tội “Chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Khoản 1 Điều 323; bị cáo Nguyễn Thành N; Nguyễn Duy T2 về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.

[2] Hành vi của các bị cáođã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác,gây mất trật tự trị an – an toàn xã hội tại địa phương. Bản thân các bị cáo đều là những người có nhân thân xấu, nhưng không tích cực sửa chữa lỗi lầm, trong đó bị cáo T là người đã bị kết án, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội do cố ý, là thuộc trường hợp tái phạm, nên cần xử phạt nghiêm. Khi lượng hình án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án, áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo, đồng thời phạt bị cáo Nguyễn Đình T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, Nguyễn Đông T1 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, Nguyễn Thành N 09 (chín) tháng tù; Nguyễn Duy T2 06 (sáu) tháng tù và không cho các bị cáo hưởng án treo là đáp ứng được yêu cầu phòng chống tội phạm tại địa phương; do đó Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo là thỏa đáng. Tuy nhiên, hành vi củabị cáo Nguyễn Đông T1 giúp bị cáo Trần Minh C bán xe mô tô Sirius biển số 78M1-059.51 cho một người tên Hoàng ở ĐắkLắk được 3.000.000 đồng,T1 đưa hết cho C, không được ăn chia; Tượng phật di lặc bằng gỗ hương do C trộm cắp đem đến cho T1 sử dụng; 03 con gà đá Ctự đem đến để ở nhà T1 khi T1 chưa ngủ dậy, những tài sản này đã kịp thời thu hồi trả lại cho người bị hại.

Tại cấp phúc thẩm, bị cáo có đơn được Ban nhân dân khu phố 4 và thị trấn Hai Riêng nơi bị cáo sinh sống xác nhận; bị cáo là lao động chính, hoàn cảnh gia đình khó khăn, đang nuôi cha mẹ già, con còn nhỏ, vợ thường xuyên đau ốm; xét tính chất phạm tội của bị cáo không có vụ lợi, nên chấp nhận một phần kháng cáo, giảm cho bị cáo T1 một phần hình phạt, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo, sớm hòa nhập cộng đồng.

[3] Các bị cáoNguyễn Đình T, Nguyễn Thành N, Nguyễn Duy T2 kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Đông T1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo hoặc kháng nghị nên cấp phúc thẩm không xem xét.

Vì các lẽ trên, Tuyên bố:

QUYẾT ĐỊNH

Bị cáo Nguyễn Đình Tphạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Bị cáo Nguyễn Đông T1 phạm tội “Chứa chấp và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”;

Các bị cáo Nguyễn Thành N, Nguyễn Duy T2 phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Căn cứ Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáoNguyễn Đình T, Nguyễn T1 Nhân, Nguyễn Duy Tân – Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng Điểm b, c Khoản 2 Điều 173; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm g, h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; phạt: Bị cáo Nguyễn Đình T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã tạm giam từ ngày 27/11/2018 đến 25/4/2019.

Áp dụng Khoản 1 Điều 323; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; phạt: Bị cáo Nguyễn Thành N 09 (Chín) tháng tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Áp dụng Khoản 1 Điều 323; Điểm s, t Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; phạt: Bị cáo Nguyễn Duy T 06 (Sáu) tháng tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáoNguyễn Đông T1 – Sửa bản án sơ thẩm về hình phạt;

Áp dụngKhoản 1 Điều 323; Điểm s Khoản 1, 2 Điều 51,Điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; phạt:Bị cáo Nguyễn Đông T109 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã tạm giam từ ngày 24/11/2018 đến ngày 07/12/2018.

Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức, thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Các bị cáo Nguyễn Đình T,Nguyễn Thành N, Nguyễn Duy T2, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Bị cáoNguyễn Đông T1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

107
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản, chứa chấp và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 06/2020/HS-PT

Số hiệu:06/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về