Bản án về tội trộm cắp tài sản (chim cảnh loại Chích chòe than) số 101/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 101/2021/HS-ST NGÀY 28/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 104/2021/HS- ST ngày 30 tháng 11 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2021/QĐXXST - HS ngày 14 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Văn Q; giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; sinh ngày: 12/6/1996 tại huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn 3, xã P, huyện B, tỉnh Quảng Bình; quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 06/12; con ông Hoàng Văn M, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1961; gia đình có 07 anh em, bị cáo là con út; chưa có vợ, con.

Tiền án: Không; Tiền sự: ngày 21/5/2021, sử dụng trái phép chất ma túy bị UBND xã Phúc Trạch áp dụng biện pháp giáo dục tại xã theo Quyết định số 01 ngày 01/6/2021.

Quá trình nhân thân: Ngày 21/5/2021, có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bị UBND xã Phúc Trạch áp dụng biện pháp giáo dục tại xã theo Quyết định số 01 ngày 01/6/2021; Ngày 16/11/2021, bị Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn xử phạt 48 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án số 49/2021/HSST.

Bị cáo đang bị giam giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Ba Đồn. Theo lệnh trích xuất Bị cáo có mặt.

* Bị hại: Anh Nguyễn Tuấn H, sinh năm 1992 có địa chỉ tại: Thôn 1, xã P, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

* Người làm chứng:

- Anh Mai Văn Đ, sinh năm 1998, có địa chỉ cư trú tại thôn X, thị trấn N, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

- Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1969, có địa chỉ cư trú tại thôn 1 , xã P, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 14/5/2021, Hoàng Văn Q đi ngang qua nhà ông Nguyễn Văn D tại thôn 1, xã Phúc Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình thấy có một số lồng chim cảnh treo trước hiên nhà nên nãy sinh ý định trộm cắp. Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 17/5/2021, Quyết mượn xe mô tô BKS số 73F1- X của anh Mai Văn Đ nói là để đi mua xăng rồi điều khiển xe đến khu vực nhà ông D để lấy trộm chim cảnh. Khi đi đến gần nhà ông D, thấy xung quanh không có người, cổng mở, phía trước hiên nhà vẫn treo một số lồng chim nên Q điều khiển xe mô tô đi thêm một vòng để dò xét tình hình rồi dừng xe tại ngã ba đường liên thôn cách nhà ông D 50 mét và đi bộ vào hiên nhà lấy trộm 02 lồng chim bằng tre, bên trong mỗi lồng có 01 con chim cảnh loại Chích chòe than của anh Nguyễn Tuấn H. Sau khi lấy được 02 lồng chim, Quyết đưa đến nơi vắng người rồi bắt chim bỏ chung vào 01 lồng, còn chiếc lồng trống Quyết đem vứt qua tường rào nhà dân và đưa đến khu vực nghĩa địa thuộc xã Phúc Trạch cất giấu. Tiếp đó Q điều khiển xe mô tô đến cửa hàng bán lồng chim chợ Troóc hỏi bán nhưng không được nên quay lại nghĩa trang đưa 02 con chim về nhà cất giấu.

Kết luận định giá số 44/KL-HĐĐGTS ngày 26/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bố Trạch xác định: 01 con chim cảnh loại Chích chòe than, chim trống, khoảng 3 năm tuổi trị giá 1.900.000 đồng; 01 con chim cảnh loại Chích chòe than, chim trống, khoảng 3 năm tuổi trị giá 3.000.000 đồng; 01 lồng chim bằng tre, dạng trụ tròn, đường kính 36cm trị giá 600.000 đồng; 01 lồng chim bằng tre, dạng trụ tròn, đường kính 23cm trị giá 300.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 5.800.000 đồng.

Vật chứng vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bố Trạch lập biên bản tạm giữ 01 con chim cảnh loại Chích chòe than, chim trống, khoảng 3 năm; 01 con chim cảnh loại Chích chòe than, chim trống, khoảng 3 năm, lông đuôi bị cụt; 01 lồng chim bằng tre, dạng trụ tròn, đường kính 36cm do Hoàng Văn Q giao nộp. Quá trình điều tra, đã bàn giao số vật chứng cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Tuấn H quản lý, chờ quyết định của cơ quan có thẩm quyền (theo biên bản bàn giao ngày 23/5/2021).

Về trách nhiệm dân sự: bị hại Nguyễn Tuấn H không có yêu cầu.

Cáo trạng số 101/CT-VKSBT ngày 30/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đã truy tố bị cáo Hoàng Văn Q về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch thực hành quyền công tố nhà nước giữ nguyên quan điểm đã truy tố Hoàng Văn Q về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Văn Q từ 06 đến 08 tháng tù. Về xử lý vật chứng, tuyên trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Về trách nhiệm dân sự, không có yêu cầu nên không xem xét. Về án phí, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị hại và người làm chứng là ông Nguyễn Văn D vắng mặt không có lý do. Xét việc tống đạt giấy triệu tập của Tòa án cho những người tham gia tố tụng là hợp pháp và sự vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án, không trở ngại cho việc xét xử. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục phiên tòa. Căn cứ Điều 292, 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[3] Về hành vi phạm tội: Xét lời khai nhận tội của bị cáo Hoàng Văn Q tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, của bị hại và các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập hợp pháp có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định: Vào khoảng 20 giờ ngày 17/5/2021, lợi dụng trời tối và sơ hở trong quản lý tài sản chủ sở hữu, Hoàng Văn Q đã lén lút vào nhà của ông Nguyễn Văn D tại thôn 1 , xã Phúc Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trộm cắp 02 lồng chim cảnh của anh Nguyễn Tuấn H với tổng trị giá 5.800.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội thấy: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng xuất phát từ bản tính do lười lao động, muốn hưởng thụ trên công sức của người khác, lại là người sử dụng ma túy nên bị cáo đã bất chấp pháp luật, lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác để thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Hành vi bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, làm mất trật tự trị an, an toàn xã hội trong khu vực, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần xử phạt bị cáo với một mức án đủ nghiêm, tương xứng với tính chất của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[5] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Về tình tiết giảm nhẹ, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa thấy đã khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên cần áp dụng điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Về nhân thân: Ngày 21/5/2021, bị UBND xã Phúc Trạch áp dụng biện pháp giáo dục tại xã do hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 16/11/2021, bị Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn xử phạt 48 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.

[6] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng ngoài lần phạm tội này bị cáo tỏ ra là người coi thường pháp luật, không chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú; ngay sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản bị cáo đã phạm tội “Cướp giật tài sản” và bị Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn xử phạt 48 tháng tù. Do đó, cần áp dụng hình phạt tù để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe giáo dục riêng, đồng thời có tác dụng phòng ngừa tội phạm chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có việc làm ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Xét các tài sản do bị cáo trộm cắp là tài sản của anh Nguyễn Tuấn H. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra mới tạm giao cho anh H quản lý, chờ quyết định của cơ quan có thẩm quyền nên cần tuyên trả lại tài sản cho chủ sở hữu.

[9] Về phần dân sự: người bị hại không có yêu cầu nên không xem xét. [10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2/ Về điều luật áp dụng: Áp dụng khoản 1, 5 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 56; Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Áp dụng Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

3/ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Q 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt 48 tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2021/HSST ngày 16/11/2021 của Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 54 (Năm mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/6/2021.

4/ Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Hoàng Văn Q.

5/ Về xử lý vật chứng: Tuyên trả lại 02 con chim cảnh loại Chích chòe than;

01 lồng chim bằng tre cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Tuấn H. Vật chứng đã giao cho anh Nguyễn Tuấn H quản lý theo Biên bản bàn giao ngày 23/5/2021.

6/ Về án phí: Xử buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ cho họ để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử theo trình tự phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

84
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (chim cảnh loại Chích chòe than) số 101/2021/HS-ST

Số hiệu:101/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bố Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Ngày 17/5/2021, Hoàng Văn Q đã trộm cắp 02 lồng chim cảnh loại Chích chòe than của anh Nguyễn Tuấn H tại nhà ông Nguyễn Văn D. Q đã lợi dụng trời tối và sơ hở trong quản lý tài sản để lén lút vào nhà ông D và trộm cắp 02 lồng chim.

Sau khi trộm cắp, Q đem 02 lồng chim đến nơi vắng người, bắt chim bỏ chung vào 01 lồng, còn lồng trống thì vứt qua tường rào nhà dân. Tiếp đó, Q đem chim về nhà cất giấu và đưa đến chợ Troóc hỏi bán nhưng không được.

Kết luận định giá xác định tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 5.800.000 đồng. Quá trình điều tra, 02 con chim và 01 lồng chim đã được tạm giao cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Tuấn H quản lý.

Hành vi của Q đã cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tòa án đã tuyên phạt Q 06 tháng tù về tội này, tổng hợp với 48 tháng tù về tội "Cướp giật tài sản" trước đó, Q phải chấp hành hình phạt 54 tháng tù.