Bản án về tội trộm cắp tài sản (cây mai cảnh) số 04/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NNG

BẢN ÁN 04/2024/HS-ST NGÀY 12/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 12 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ mở phiên toà công khai xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 111/2023/TLHS-ST ngày 30 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2023/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 12 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Phan Văn A (Tên gọi khác: C), sinh ngày 10/12/1994 tại Đà Nẵng; Nơi đăng ký thường trú: Tổ C, phường A, quận S, TP Đà Nẵng; Chỗ ở: Tổ B thôn C, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam; số căn cước công dân: 0480940070xx; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Văn D và bà Nguyễn Thị Xuân T, có vợ là Phan Thị Diễm M, có 02 con (L sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2016); Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

Ngày 03/5/2013 bị Tòa án nhân dân quận Sơn Trà xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Ngày 04/6/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 13 tháng.

Ngày 10/8/2023 bị Tòa án nhân dân huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Ngày 18/9/2023 bị Tòa án nhân dân thi xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Ngày 27/9/2023 bị Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng xử phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trm cắp tài sản”.

Tại quyết định tổng hợp hình phạt số 05 ngày 20/11/2023 của Chánh án Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng đã tổng hợp hình phạt của cả 03 bản án nêu trên buộc bị cáo Phan Văn A phải chấp hành hình phạt chung là 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù.

Bị cáo bị bắt giam ngày 04/4/2023 trong vụ án tại thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam. Có mặt tại phiên tòa.

2. Phùng Ngọc C1 (Tên gọi khác: Tèo B), sinh ngày 20/01/1995 tại tỉnh Quảng Nam; Nơi cư trú: Khối phố C, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam; số căn cước công dân: 0490950138xx; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phùng H (còn sống) và bà Phạm Thị N (đã chết); Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 28/01/2021 bị Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam xử phạt 04 tháng 21 ngày tù và phạt bổ sung 10 triệu đồng về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sn”, đến ngày 19/10/2023 bị cáo mới thi hành xong án phí và nộp phạt bổ sung 10 triệu đồng.

Nhân thân: Ngày 17/9/2013 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xử phạt 01 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Ngày 10/9/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích.

Ngày 07/11/2018 bị Công an thị xã Đ xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Ngày 27/11/2020 bị UBND thị xã Đ quyết định xử phạt hành chính về hành vi “Mua bán và tàng trữ vũ khí thể thao và cất giấu dao bấm trong người với mục đích gây thương tích cho người khác”.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Công T1 (Tên gọi khác: Tín M1), sinh ngày 20/5/1989 tại tỉnh Quảng Nam; Nơi đăng ký thường trú: Khối phố N, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam; Số căn cước công dân: 0490890028xx; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn M2 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ (còn sống), có vợ là Trần Thị A1 và 03 con (Lớn nhất sinh năm 2017, nhỏ nhất sinh năm 2021); Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 10/8/2023 bị Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam xử phạt 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Ngày 29/7/2021 bị Công an phường Đ ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

- Ông Huỳnh Duy H1, sinh năm 1982; Địa chỉ: E đường P, tổ A, phường K, quận C, TP Đà Nẵng; Vắng mặt.

- Ông Huỳnh Bá Nl, sinh năm 1997; Địa chỉ: A đường N, phường H, quận c, TP Đà Nẵng; Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Đồng Quốc T2, sinh năm 1993; Địa chỉ: Thôn V, xã H, huyện H, TP Đà Nẵng; Vắng mặt.

Ông Nguyễn Văn T3, sinh năm 1967; Địa chỉ: 5 N, phư A, quận S, TP Đà Nẵng; Có mặt.

Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1999; Địa chỉ: 5 N, phư A, quận S, TP Đà Nẵng; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Để có tiền tiêu xài nên Phan Văn A đã nhiều lần trộm cắp tài sản là các cây mai cảnh trên địa bàn quận C rồi bán lại cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 03 giờ 30 ngày 25/01/2023, Phan Văn A điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu đỏ - đen biển số 43E1-148.xx đi từ phòng trọ của mình tại thôn C, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam ra quận C tìm nhà nào có cây mai cảnh thì trộm cắp. Khi đi ngang quán N3 tại A đường N, phường H, quận C của anh Huỳnh Bá N1, Anh phát hiện 01 cây mai đột xanh, loại thanh mai, cao 2m, tán cây rộng khoảng 2m, dáng bay, hoành gốc khoảng 45cm, đang trồng trong chậu trước quán. Anh dừng xe ở ngoài đường, đi bộ về phía chậu mai, A leo lên chậu cây dùng tay lay một lúc rồi nhổ cây mai ra khỏi chậu. Anh kéo cây mai ra xe mô tô gác gang lên phía sau yên xe rồi điều khiển xe mô tô chở cây mai về lại thị xã Đ.

Đến khoảng 05 giờ sáng cùng ngày, Anh chở cây mai vừa trộm được đến nhà Nguyễn Công T1 để bán lại. Mặc dù biết cây mai của Anh là do trộm cắp mà có nhưng T1 vẫn đồng ý mua và ra giá 3.000.000 đồng. Anh đồng ý bán thì T1 đưa trước 1.000.000 đồng, rồi cả hai khiêng cây mai vào nhà của T1 để cất giấu. Qua hôm sau, T1 gặp A và đưa thêm cho Anh số tiền còn lại.

Vụ thứ 2: Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 29/01/2023, Anh điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter 150 màu xanh trắng, BKS 43k-284.xx chở theo Phùng Ngọc C1 đi từ phường Đ, T Đà Nẵng để ăn khuya. Trên đường về khi đi ngang qua khu vực chợ C2, A phát hiện phía trước Showroom H tại địa chỉ số nhà E đường P, phường K, quận C, TP Đà Nẵng của anh Huỳnh Duy H1 có 01 cây mai loại thanh mai, cao khoảng 1,6m, tán cây rộng 1,2m, dáng trực, hoàng gốc khoảng 39cm được trồng trong chậu nên A dừng xe tìm cách trộm cây mai này. Anh đi bộ lại phía chậu cây mai, dùng tay nhổ bật gốc cây mai khỏi chậu, rồi kéo cây mai ra xe, đặt nằm ngang lên yên xe để C1 chở còn Anh ngồi sau giữ cây mai, khi đi đến chân cầu N, Anh đổi lại là người lái xe, còn C1 ngồi sau giữ cây. Khi đi đến ngã tư Đ thì C1 sợ bị phát hiện nên xuống xe, đi bộ về nhà, còn A vẫn một mình điều khiển xe chở theo cây mai đến nhà Nguyễn Công T1. Tuy nhiên khi đến nhà anh T1 thì Anh không liên lạc được với T1 nên Anh vất cây mai bên hông nhà. Qua hôm sau, T1 phát hiện có cây mai bên hông nhà không rõ chủ nên mang vào nhà chăm sóc. Sau đó T1 đã tự nguyện giao nộp 2 cây mai cho Công an phường H, quận C.

Vật chứng thu giữ:

01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter 150, màu xanh- trắng, BKS 43k-284.xx.

01 cây mai loại thanh mai, chiều cao khoảng 2m, động rộng tán 2m, dáng bay, hoàng gốc khoảng 45cm.

01 cây mai loại thanh M3, chiều cao khoảng 1,6m, độ rộng tán cây 1,2m, dáng trực, hoàng gốc khoảng 39cm.

Tại kết luận định giá tài sản số 22/KL-HĐĐGTS ngày 06/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận C kết luận:

01 cây mai loại Thanh mai, chiều cao khoảng 2m, động rộng tán 2m, dáng bay, hoành gốc khoảng 45cm có giá trị vào thời điểm chiếm đoạt là: 33.300.000 đồng.

01 cây mai loại Thanh mai, chiều cao khoảng 1,6m, độ rộng tán cây 1,2m, dáng trực, hoành gốc khoảng 39cm có giá trị vào thời điểm chiếm đoạt là: 36.900.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản bị cáo Phan Văn A cùng đồng phạm chiếm đoạt là: 70.200.000 đồng.

Với nội dung trên, tại Bản cáo trạng số 107/CT-VKSCL ngày 22/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã truy tố:

Bị cáo Phan Văn A về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Phùng Ngọc C1 về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Nguyễn Công T1 về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo Phan Văn A, Phùng Ngọc C1, Nguyễn Công T1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng; các bị cáo thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận cẩm Lệ đã truy tố các bị cáo về các tội danh nêu trên là đúng tội, không oan. Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Bị hại Huỳnh Bá N1 có mặt tại phiên tòa trình bày: Sau khi bị trộm mất cây mai, anh N1 đăng thông tin tìm kiếm lên mạng xã hội thì được bị cáo Nguyễn Công T1 chủ động trả lại cây mai. Do đó, anh N1 xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T1 và không yêu cầu các bị cáo bồi thường thêm khoản nào khác.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo Phan Văn A, Phùng Ngọc C1, Nguyễn Công T1, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm c khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phan Văn A mức án từ 02 đến 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phùng Ngọc C1 mức án từ 15 tháng tù đến 21 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng: Khoản 1 Điều 323; điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Công T1 mức án từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Về xác định hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo Phan Văn A, Phùng Ngọc C1, Nguyễn Công T1 đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan, các vật chứng thu giữ, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định:

Do cần tiền tiêu xài nên vào rạng sáng ngày 25/01/2023 và ngày 29/01/2023, tại số nhà A đường N, phường H, quận C và số nhà E đường P, phường K, quận C, bị cáo Phan Văn A đã cùng đồng phạm lén lút chiếm đoạt 02 cây mai cảnh có tổng trị giá là 70.200.000 đồng của các bị hại anh Huỳnh Bá N2 và anh Huỳnh Duy H1.

Bị cáo Phùng Ngọc C1 tham gia cùng bị cáo Phan Văn A trộm cắp 01 cây mai cảnh có trị giá 36.900.000 đồng vào ngày 29/01/2023 tại 5 đường P, phường K, quận C của anh Huỳnh Duy H1.

Bị cáo Nguyễn Công T1 biết rõ cây mai cảnh trị giá 33.300.000 đồng mà Phan Văn A đem bán là tài sản do Phan Văn A phạm tội mà có nhưng vì hám lợi, Nguyễn Công T1 vẫn đồng ý tiêu thụ cây mai này với giá 3.000.000 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Phan Văn A đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng” theo c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự; bị cáo Phùng Ngọc C1 đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; Nguyễn Công T1 đã phạm vào tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự, như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ đã truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án thì thấy: Đây là vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội của địa phương, gây hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do đó, đối với các bị cáo cần xử phạt nghiêm, để cải tạo, giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Xét vai trò, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của các bị cáo thì thấy:

Trong vụ án này bị cáo Phan Văn A 02 lần trộm cắp tài sản, trong đó 01 lần bị cáo rủ rê bị cáo Phùng Ngọc C1 cùng tham gia nhưng giữa các bị cáo không có bàn bạc cấu kết chặt chẽ với nhau nên chỉ là đồng phạm giản đơn. Khi thực hiện hành vi phạm tội cùng với C1 thì bị cáo A là người trực tiếp trộm cắp tài sản; Bị cáo Chung cảnh giới và cùng với Anh chở cây mai trộm cắp được từ C về thị xã Đ. Bị cáo Nguyễn Công T1 biết rõ cây mai cảnh trị giá 33.300.000 đồng do Phan Văn A trộm cắp nhưng vì hám lợi bị cáo vẫn tiêu thụ. về nhân thân các bị cáo đều có nhân thân xấu, trong đó bị cáo C1 có 01 tiền án chưa được xóa án tích phạm tội thuộc trường hợp tái phạm. Vì vậy đối với các bị cáo cần xử phạt nghiệm, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo như đề nghị của đại diện VKS tại phiên tòa là phù hợp.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Phan Văn A phạm tội từ 2 lần trở lên là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; bị cáo Phùng Ngọc C1 phạm tội thuộc trường hợp tái phạm là tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa cả 03 bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo Nguyễn Công T1 đã tự nguyện trả lại tài sản cho người bị hại, người bị hại bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, hiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, các con còn nhỏ; Gia đình bị cáo C1 có công với cách mạng (có bà ngoại Trần Thị B1 là Mẹ Việt Nam A, cậu Phạm Y là Liệt sĩ). Do đó, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho cả 03 bị cáo, áp dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo T1, áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo T1, bị cáo Chung, để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã thu hồi trả lại cho các bị hại, các bị hại không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm nên không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter 150, màu xanh- trắng, BKS 43k-284.xx qua xác minh xe mô tô này của anh Đồng Quốc T2 cho Phan Văn A thuê để đi lại nhưng bị cáo A lại sử dụng vào việc phạm tội anh T2 không biết nên cơ quan điều tra đã trả lại cho anh T2 là có căn cứ.

Đối với xe mô tô Sirius BKS 43E1-148.xx qua xác minh thì xe mô tô này thuộc sở hữu anh Nguyễn Văn T3, ông T3 giao xe cho con trai là Nguyễn Văn V sử dụng. Sau đó anh V cho bị cáo A mượn sử dụng, Anh sử dụng vào việc phạm tội anh V không biết. Do đó cơ quan điều tra đã xử lý trả lại cho anh T3 là có căn cứ.

[8] Về án phí:

Các bị cáo Phan Văn A, Phùng Ngọc C1, Nguyễn Công T4 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST theo quy định của pháp luật;

[9] Về việc tổng hợp hình phạt:

Ngoài phạm tội ở vụ án này, bị cáo Phan Văn A, Nguyễn Công C phạm tội và bị xét xử ở nhiều vụ án khác, cụ thể:

Bị cáo Phan Văn A: Ngày 10/8/2023 bị Tòa án nhân dân huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 18/9/2023 bị Tòa án nhân dân thi xã Đ, tỉnh Quảng Nam xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 27/9/2023 bị Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng xử phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tại Quyết định tổng hợp hình phạt số 05 ngày 20/11/2023 của Chánh án Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng đã tổng hợp hình phạt của cả 03 bản án nêu trên buộc bị cáo Phan Văn A phải chấp hành hình phạt chung là 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Do đó, cần tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt của cả 3 bản án nêu trên, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung.

Bị cáo Nguyễn Công T1: ngày 10/8/2023 bị Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam xử phạt 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, bản án này đã có hiệu lực pháp luật. Do đó cần tổng hợp hình phạt của bản án này với bản án của Tòa án nhân dân thị xã Điền Bàn, tỉnh Quảng Nam buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả 02 bản án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Phan Văn A, Phùng Ngọc C1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Bị cáo Nguyễn Công T1 phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

1.1 Áp dụng: Điểm c khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Văn A 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự: Tổng hợp hình phạt 02 năm tù của bản án này với hình phạt 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù tại Quyết định tổng hợp hình phạt số 05 ngày 20/11/2023 của Chánh án Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng về việc tổng hợp hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 105/2023/HS-ST ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng, Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2023/HS-ST ngày 10/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, Bản án hình sự sơ thẩm số 83/2023/HSST ngày 18/9/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, buộc bị cáo Phan Văn A phải chấp hành hình phạt chung của cả 04 bản án là: 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/4/2023.

1.2 Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phùng Ngọc C1 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

1.3 Áp dụng: Khoản 1 Điều 323; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Công T1 01 (một) năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự: Tổng hợp hình phạt 01 (một) năm tù của bản án này với hình phạt 06 (sáu) tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 83/2023/HSST ngày 18/9/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, buộc bị cáo Nguyễn Công T1 phải chấp hành hình phạt chung là của cả 02 bản án là: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã thu hồi trả lại cho các bị hại, các bị hại không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Phan Văn A, Phùng Ngọc C1, Nguyễn Công T1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (cây mai cảnh) số 04/2024/HS-ST

Số hiệu:04/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về