Bản án về tội trộm cắp tài sản (2 khẩu súng và 60 viên đạn mang) số 176/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 176/2023/HS-ST NGÀY 29/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 29 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 168/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 183/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2023, đối với bị cáo:

Lê Đức V (tức Bùi Đức V1), sinh ngày 27 tháng 4 năm 1990, tại Hải Phòng; nơi cư trú: Tổ dân phố số I, thị trấn C, huyện C, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đức T và bà Bùi Thị H (V1 mang họ mẹ đến tháng 9 năm 2015 cải chính hộ tịch từ Bùi Đức V1 thành Lê Đức V); gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án: Án số 23/HSST ngày 26/11/2019, Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt ngày 25/01/2022; nhân thân: Tại Quyết định số 1467, ngày 23/6/2006 của Ủy ban nhân dân huyện C áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng 24 tháng; Quyết định số 1031, ngày 19/10/2009, Ủy ban nhân dân huyện C áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở chữa bệnh bắt buộc 24 tháng. Án số 28/2013/HSST ngày 20/9/2013, Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng xử phạt 36 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đã được xoá án tích). Án số 19/HSST ngày 15/11/2018, Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đã được xoá án tích); tạm giữ ngày 08/11/2022; tạm giam ngày 16/11/2022; có mặt;

Người bào chữa: Ông Bùi Quốc C - Luật sư Văn phòng L và Liên danh thuộc Đoàn luật sư thành phố H; có mặt;

- Bị hại: Ông Đoàn Đắc H1, sinh năm 1963; nơi cư trú: Tổ dân phố số A, thị trấn C, huyện C, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (đề nghị xét xử vắng mặt);

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Công ty Cổ phần V2; địa chỉ trụ sở: số C đường N, thị trấn C, huyện C, thành phố Hải Phòng;

Người đại diện theo pháp luật: Ông Đoàn Đắc H1, sinh năm 1963; nơi cư trú: Tổ dân phố số A, thị trấn C, huyện C, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (đề nghị xét xử vắng mặt);

- Người làm chứng: Bà Bùi Thị H, sinh năm 1972; có mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 03 giờ ngày 29/10/2022, Lê Đức V đi bộ tại khu vực thị trấn C, C, Hải Phòng với mục đích trộm cắp tài sản. Khi đến trước cửa nhà ông Đoàn Đắc H1, sinh năm 1963; địa chỉ: Tổ dân phố số A, thị trấn C, huyện C, thành phố Hải Phòng, phát hiện cửa nhà mở nên V đã đi vào phòng làm việc lấy 01 máy tính bảng Ipad màu tím mang về nhà cất giấu.

Khoảng 03 giờ ngày 30/10/2022, V tiếp tục đến nhà ông H1 để trộm cắp tài sản. V thấy cửa nhà không khóa nên đi vào phòng ngủ tầng 2 rồi dùng chìa khóa két sắt tìm được tại đầu giường để mở két sắt và lấy 05 nhẫn vàng trơn, 02 miếng vàng thần tài hình bầu dục, 02 miếng vàng hình tròn, 01 miếng vàng thỏi, 01 sợi dây chuyền treo, mặt dây hình giọt nước gắn kim cương, 02 nhẫn màu trắng gắn kim cương, 02 chiếc hoa tai màu trắng gắn kim cương, 02 khẩu súng và 60 viên đạn mang về nhà cất giấu.

Đến khoảng 06h30’ ngày 30/10/2022, V mang 01 nhẫn vàng trơn và 01 miếng kim loại màu vàng hình tròn đến cửa hàng kinh doanh vàng, bạc ở đường L (không rõ địa chỉ) bán được khoảng 100.000.000 đồng ăn tiêu hết. Vũ giấu 02 khẩu súng và 60 viên đạn ở tủ thờ nhà V. Số vàng còn lại V cất giấu ở trong ống nước đối diện cửa nhà V. Trưa ngày 30/11/2022, bà Bùi Thị H (mẹ đẻ của V) phát hiện thấy 02 khẩu súng và đạn ở tủ thờ. Lo sợ V dùng súng đi bắn người nên bà H đã ném 02 khẩu súng và đạn xuống biển ở bãi tắm B - Tổ dân phố số A, thị trấn C, C, Hải Phòng.

Ngày 08/11/2022, Lê Đức V bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, thu giữ của V 01 điện thoại di động Iphone và số tiền 12.570.000 đồng. V khai nhận đây là số tiền V bán vàng để ăn tiêu còn lại.

Tiến hành khám nghiệm hiện trường tại nhà ông Đoàn Đắc H1, Cơ quan điều tra thu giữ được 01 dấu vết đường vân tại lớp nilon bọc ngoài Hộ chiếu mang tên Đoàn Thị Thùy D tại phòng làm việc; 02 dấu vết đường vân thu trên chai rượu bằng thủy tinh trên tủ gỗ tại phòng ăn.

Tại Kết luận giám định số 64 ngày 07/11/2022 của Phòng K - Công an thành phố H kết luận: Các dấu vết đường vân thu giữ được tại hiện trường là của Lê Đức V.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Đức V đã thu giữ tại ống nước trước cửa nhà V: 04 nhẫn vàng trơn; 02 miếng vàng thần tài hình bầu dục, 01 miếng vàng thần tài hình tròn, 01 miếng vàng thỏi; 01 sợi dây chuyền treo mặt dây hình giọt nước gắn kim cương, 02 nhẫn màu trắng gắn kim cương, 02 chiếc hoa tai màu trắng gắn kim cương; thu giữ tại phòng ngủ của V thu giữ: 01 Ipad Air màu tím, 01 cục sạc, 01 dây cáp sạc.

Tiến hành truy tìm vật chứng tại bãi tắm B - Tổ dân phố số A, C, Cát H2, Hải Phòng thu giữ 02 khẩu súng và 29 viên đạn.

Tại Kết luận giám định số 373/KL-KTHS ngày 18/01/2023 của V3 Bộ C1, kết luận:

- 01 miếng kim loại màu vàng chế tác hình dạng thỏi, khối lượng 18,75 gam là vàng, hàm lượng 99,99%.

- 01 miếng kim loại màu vàng chế tác hình thần tài, khối lượng 7,49 gam là vàng, hàm lượng 99,99%.

- 01 miếng kim loại màu vàng chế tác hình thần tài, khối lượng 3,75 gam là vàng, hàm lượng 99,99%.

- 01 miếng kim loại màu vàng chế tác hình thần tài, khối lượng 3,75 gam là vàng, hàm lượng 99,99%.

- 02 nhẫn tròn trơn, đều có khối lượng 3,75 gam là vàng, hàm lượng 99,99%.

- 01 nhẫn tròn trơn, khối lượng 7,50 gam là vàng, hàm lượng 99,99%.

- 01 nhẫn tròn trơn, khối lượng 5,17 gam là vàng, hàm lượng 99,95%.

- 01 dây chuyền màu trắng, treo mặt dây hình giọt nước bằng kim loại màu trắng gắn vật liệu không màu, tổng khối lượng 52,36 gam, trong đó: Phần kim loại đều là hợp kim mạ Rhodi, hàm lượng vàng trung bình 75,06%. 278 viên vật liệu không màu đều là kim cương tự nhiên.

- 01 nhẫn kim loại màu trắng, mặt nhẫn gắn 63 viên và 12 tấm vật liệu không màu, tổng khối lượng 14,76 gam, trong đó: Phần kim loại là hợp kim mạ Rhodi, hàm lượng vàng 75,04%. 63 viên và 12 tấm vật liệu không màu đều là kim cương tự nhiên.

- 01 nhẫn kim loại màu trắng, mặt nhẫn gắn 69 viên vật liệu không màu có tổng khối lượng 13,88 gam, trong đó: Phần kim loại là hợp kim mạ Rhodi, hàm lượng vàng 75,01%. 69 viên vật liệu không màu đều là kim cương tự nhiên.

- 02 chiếc hoa tai đều bằng kim loại màu trắng, mỗi chiếc gắn 11 viên vật liệu không màu, đều treo mặt hình giọt nước bằng kim loại màu trắng có gắn 24 viên vật liệu không màu, tổng khối lượng 5,23 gam, trong đó: Phần kim loại là hợp kim mạ Rhodi, hàm lượng vàng trung bình 75,09%. 70 viên vật liệu không màu đều là kim cương tự nhiên.

Tại Kết luận định giá về tài sản tố tụng hình sự số 19/KL-HDĐG ngày 10/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C kết luận: Tổng trị giá tài trộm cắp là 1.191.560.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số 04/KL-KTHS(SĐ) ngày 20/02/2023 của Phòng K Công an T kết luận: 02 khẩu súng gửi giám định gồm 1 khẩu súng ổ quay ME38, 01 khẩu súng ngắn RG88 và 29 viên đạn thu giữ được đều thuộc danh mục công cụ hỗ trợ, không phải vũ khí quân dụng.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Đức V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

Vật chứng của vụ án: Toàn bộ tài sản thu giữ được và số tiền 12.570.000 đồng, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại. Đối với 02 khẩu súng, 29 viên đạn, 01 điện thoại di động Iphone chuyển Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng để xử lý theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại được tài sản; V đã tác động gia đình V trả lại số vàng bị mất nên ông H1 không có yêu cầu gì khác.

Tại bản Cáo trạng số 169/CT-VKS-P3 ngày 03 tháng 8 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng truy tố Lê Đức V về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Bị cáo Lê Đức V khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Do không có tiền tiêu sài nên bị cáo đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Khoảng 03h ngày 29/10/2022 và ngày 30/10/2022, bị cáo đi lang thang đến khu vực đường N, thị trấn C xem có ai sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi đi qua cổng nhà ông H1 thì bị cáo phát hiện thấy cổng ngõ nhà ông H1 không khoá nên đã lợi dụng sơ hở này để trộm cắp các tài sản như bản cáo trạng đã nêu. Đến ngày 08/11/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã thực hiện việc khám xét nơi ở của bị cáo đã thu giữ phần lớn tài sản trộm cắp. Trong số tài sản đã trộm cắp, khoảng 6h30’ ngày 30/10/2022, bị cáo đã bán 01 nhẫn vàng trơn, 01 miếng vàng hình tròn cho 01 cửa hàng trang sức không rõ địa chỉ tại T thành phố Hải Phòng lấy số tiền hơn 100.000.000 đồng, đã tiêu xài, còn 12.570.000 đồng cơ quan Công an đã thu giữ. Trong thời gian tạm giam, bị cáo đã suy nghĩ về hành vi phạm tội cũng như những lần phạm tội trước, bị cáo rất ân hận và sau lần phạm tội này cố gắng cải tạo tốt để trở thành người có ích. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Người bào chữa trình bày: Nhất trí với quyết định truy tố của Viện Kiểm sát về tội danh, về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định cho bị cáo mức hình phạt khởi điểm của khung hình phạt bị truy tố.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên trình bày quan điểm luận tội: Giữ nguyên nội dung truy tố bị cáo Lê Đức V về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, đồng thời phân tích hành vi, nhân thân, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Căn cứ điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Lê Đức V với mức án từ 13 năm đến 14 năm tù. Về dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và được bồi thường, không còn yêu cầu nên không đặt vấn đề giải quyết. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên giao cho Công an thành phố H: 01 khẩu súng dạng băng đạn bằng kim loại, kích thước 16x11cm, nòng súng có in dòng chữ “ROHM RG88” “RC134412396”, “Cal 9mm PAK”, “Made in Germany”; 01 khẩu súng dạng côn xoay, màu đen, kích thước 18x11,5cm, nòng súng in dòng chữ “ME38 Compact-G”; 07 viên đạn vỏ kim loại màu trắng, đầu đạn bằng nhựa; 22 viên đạn vỏ kim loại màu vàng, đầu đạn bằng cao su; trả lại cho bị cáo V 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro Max vỏ xanh do không liên quan đến việc phạm tội nhưng tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng; lời khai của bị hại; phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường lập hồi 10h45’ ngày 04/11/2022; phù hợp với Biên bản khám xét nơi ở của bị cáo Vũ lập ngày 08/11/2022; Kết luận giám định số 373/KL-KTHS ngày 18/01/2023 của V3 - Bộ C1; bản Kết luận giám định số 64/KL-KTHS(ĐV) ngày 07/11/2022 về thời gian, địa điểm phạm tội cũng như các tình tiết khác của vụ án. Lời khai đó còn phù hợp với bản Kết luận về giá của tài sản tố tụng hình sự số 19/KL-HĐĐG ngày 10/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản. Theo kết luận của Hội đồng định giá: Tổng giá trị tài sản bị cáo V đã trộm cắp là 1.191.560.000 đồng. Như vậy, việc truy tố của Viện Kiểm sát đối với bị cáo là có căn cứ và đà có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 03 giờ 00 phút ngày 29 và ngày 30 tháng 10 năm 2022, bị cáo Lê Đức V lợi dụng người bị hại sơ hở, không đóng cửa nhà đã có hành vi lén lút trộm cắp số tài sản đã liệt kê tại bản cáo trạng. Hành vi của bị cáo đã phạm tội trộm cắp tài sản. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Hành vi đó của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, trị giá tài sản trộm cắp lớn làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an nên cần phải được xử lý thỏa đáng.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo:

[3] Bị cáo phạm tội 02 lần trở lên; bị cáo đã có 01 tiền án chưa được xoá án tích nên lần này phạm tội là tái phạm - là những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo đã tác động đến gia đình để bồi thường thiệt hại cho bị hại, khắc phục hậu quả; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự - là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về nhân thân: Bị cáo đã hai lần bị Ủy ban nhân dân huyện C ra Quyết định hành chính áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng và áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở chữa bệnh bắt buộc (năm 2006 và năm 2009); các tiền sự đều đã được xoá theo quy định của pháp luật. Bị cáo đã ba lần bị Tòa án kết án: Án số 28/2013/HSST ngày 20/9/2013, Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng xử phạt 36 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Án số 19/HSST ngày 15/11/2018, Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Án số 23/HSST ngày 26/11/2019, Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt ngày 25/01/2022. Tuy nhiên, bản án số 28/2013/HSST ngày 20/9/2013 và bản án số 19/HSST ngày 15/11/2018 đều đã được xoá án tích theo quy định của pháp luật; riêng bản án số 23/HSST ngày 26/11/2019 chưa được xoá theo quy định của pháp luật nên lần này bị cáo phạm tội là tái phạm.

- Về hình phạt:

[5] Từ những phân tích trên, căn cứ vào tính chất vụ án, mức độ vi phạm, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo với xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung - Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Ngoài hình phạt chính, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung - phạt tiền. Xét thấy, hiện bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về bồi thường dân sự: Người bị hại - ông Đoàn Đắc H1 đã nhận lại tài sản bị trộm cắp, bị cáo đã tác động gia đình hoàn trả số tài sản bị cáo đã bán. Ông H1 xác nhận đã nhận lại đầy đủ tài sản bị trộm cắp, không còn yêu cầu và có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo, nên không đặt vấn đề giải quyết.

[7] Đối với 02 khẩu súng và 60 viên đạn là công cụ hỗ trợ được Phòng Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an thành phố H cấp giấy phép mua và sử dụng cho Công ty Cổ phần V2 do ông Đoàn Đắc H1 làm giám đốc theo đúng quy định của pháp luật, thời hạn cấp phép sử dụng đến ngày 13/6/2019 là hết hạn. Tuy nhiên, Phòng Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an thành phố H vẫn giao cho công ty của ông H1 tự quản lý để chờ được cấp đổi giấy phép sử dụng công cụ hỗ trợ. Lê Đức V có hành vi chiếm đoạt 02 khẩu súng và 60 viên đạn trên nhưng chưa bị xử phạt hành chính hoặc bị kết án về tội này nên hành vi của V không cấu thành tội Chiếm đoạt công cụ hỗ trợ quy định tại Điều 306 Bộ luật Hình sự. Cơ quan điều tra đã có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân huyện C xử phạt vi phạm hành chính đối với Lê Đức V về hành vi trên.

[8] Về tang vật vụ án: 01 khẩu súng dạng băng đạn bằng kim loại, kích thước 16x11 cm, nòng súng có in dòng chữ “ROHM RG88” “RC134412396”, “Cal 9mm PAK”, “Made in Germany”; 01 khẩu súng dạng côn xoay, màu đen, kích thước 18x11,5cm, nòng súng in dòng chữ “ME38 Compact-G”; 07 viên đạn vỏ kim loại màu trắng, đầu đạn bằng nhựa; 22 viên đạn vỏ kim loại màu vàng, đầu đạn bằng cao su được Phòng Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an thành phố H cấp giấy phép mua và sử dụng cho Công ty cổ phần V2 do ông Đoàn Đắc H1 làm giám đốc. Tại Công văn số 1395/PC06-Đ3, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H cho biết: “Đến nay Công ty không thực hiện hoạt động kinh doanh có sử dụng vật liệu nổ công nghiệp. Căn cứ Luật sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ ngày 20/6/2017, Công ty không thuộc đối tượng được trang bị súng công cụ hỗ trợ nên không làm thủ tục cấp đổi Giấy phép sử dụng công cụ hỗ trợ. Công ty cũng đã cam kết không sử dụng số công cụ hỗ trợ trên trong thời gian chưa được cấp đổi Giấy phép sử dụng công cụ hỗ trợ, khi có hoạt động kinh doanh có sử dụng vật liệu nổ công nghiệp trở lại sẽ xin cấp Giấy phép sử dụng công cụ hỗ trợ sau. Hiện tại chưa có quy định hoặc văn bản hướng dẫn về việc xử lý đối với đối tượng trước kia được trang bị nay không thuộc đối tượng trang bị mà chỉ thực hiện công tác vận động thu hồi để quản lý theo quy định”. Do vậy, cần giao lại các vật chứng nêu trên cho Công an thành phố H để xử lý theo quy định. Đối với tang vật là 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro Max vỏ xanh, số máy 3F913J/A, số seri G6TZ9F7QN70W, số Imei: 3539071031269xx, bên trong lắp một sim, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo V - Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[9] Ngoài ra, bị hại còn trình báo bị mất 01 con lợn đất, bên trong có khoảng 150.000.000 đồng nhưng chưa xác định được đối tượng thực hiện hành vi trộm cắp. Do đó, Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ, xử lý sau.

[10] Về án phí: Bị cáo Lê Đức V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật - khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326.

[11] Bị cáo, bị hại đều được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 173; điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

1. Xử phạt: Bị cáo Lê Đức V 13 (Mười ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; thời hạn tù tính từ ngày 08/11/2022.

Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

2.1. Giao lại cho Công an thành phố H 01 khẩu súng dạng băng đạn bằng kim loại, kích thước 16x11cm, nòng súng có in dòng chữ “ROHM RG88” “RC134412396”, “Cal 9mm PAK”, “Made in Germany”; 01 khẩu súng dạng côn xoay, màu đen, kích thước 18x11,5cm, nòng súng in dòng chữ “ME38 Compact-G”; 07 viên đạn vỏ kim loại màu trắng, đầu đạn bằng nhựa; 22 viên đạn vỏ kim loại màu vàng, đầu đạn bằng cao su để xử lý theo quy định.

2.2. Trả lại bị cáo Lê Đức V 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro Max vỏ xanh, số máy 3F913J/A, số seri G6TZ9F7QN70W, số Imei: 3539071031269xx, bên trong lắp một sim (Các vật chứng nêu trên được ghi nhận tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/8/2023) Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Lê Đức V phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo Lê Đức V có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật, ông Đoàn Đắc H1, Công ty Cổ phần V2 có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

Trường hợp Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 9 của Luật thi hành án dân sự được sửa đi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

67
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (2 khẩu súng và 60 viên đạn mang) số 176/2023/HS-ST

Số hiệu:176/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Vào khoảng 3 giờ sáng ngày 29 và 30/10/2022, V đã lợi dụng sơ hở của gia chủ để đột nhập vào nhà ông Đoàn Đắc H1 tại thị trấn C, huyện C, Hải Phòng. V đã trộm cắp nhiều tài sản có giá trị tổng cộng 1.191.560.000 đồng.

Tài sản bị trộm bao gồm: máy tính bảng iPad, nhiều nhẫn và miếng vàng, đồ trang sức kim cương, 2 khẩu súng và 60 viên đạn. V đã bán một phần tài sản trộm cắp được hơn 100 triệu đồng. Phần lớn tài sản còn lại đã được thu hồi khi khám xét nhà V vào ngày 8/11/2022.

V có nhiều tiền án, tiền sự và đây là lần tái phạm. Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã xét xử và tuyên phạt Lê Đức V 13 năm tù giam. V được hưởng các tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, đã bồi thường thiệt hại cho bị hại.

Về xử lý vật chứng, 2 khẩu súng và 29 viên đạn được giao cho Công an thành phố Hải Phòng xử lý. Điện thoại di động của V được trả lại cho bị cáo. V phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.