TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 148/2023/HS-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29/9/2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 148/2023/TLST-HS ngày 31/8/2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 143/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2023 và Thông báo dời phiên tòa số 01/TB-TA ngày 20/9/2023 đối với bị cáo:
Đặng Hữu V, sinh năm: 1996; Nơi sinh: Đồng Nai; nơi cư trú: ấp T, xã X, huyện T, tỉnh Đồng Nai; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 5/12; con ông Đặng Văn P, sinh năm 1971 (đã chết); và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1973; tiền sự: Không; tiền án:
+ Ngày 15/11/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xử phạt 03 năm 03 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 60/2018/HSST. Ngày 17/7/2021, V chấp hành xong án phạt tù.
+ Ngoài ra ngày 20/6/2023, bị Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 01/9/2023 chấp hành xong.
Bị cáo bắt tạm giam ngày: 29/9/2023. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
- Bị hại: Ông Trần Kim T, sinh năm 1995. Địa chỉ: ấp H, xã H, thành phố L, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1984. Địa chỉ: ấp S, xã L, huyện C, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt).
- Người làm chứng: Ông Lê M, sinh năm 1997. Địa chỉ: ấp H, xã H, thành phố L, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đặng Hữu V có mối quan hệ quen biết với Lê M, sinh năm 1995, nơi cư trú: ấp H, xã H, thành phố L, tỉnh Đồng Nai từ năm 2012 cho đến nay. Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên cả hai rủ nhau đi trộm cắp tài sản nhà dân bán lấy tiền tiêu xài.
Sau khi biết nhà anh Trần Kim T, sinh năm 1995 ngụ ấp H, xã H, thành phố L, tỉnh Đồng Nai ngay bìa lô cao su trên đường H - X, khóa cửa đi làm cả ngày không có ai trông coi nên V gọi điện thoại rủ Lê Minh đ trộm cắp tài sản, M đồng ý. Vào khoảng 13 giờ ngày 13/6/2022, M điều khiển xe máy hiệu Satria, biển số 60F3 - 290.xx đến quán C tại ấp H, xã H, thành phố L, tỉnh Đồng Nai để đón V, khi đi V có mang theo một chiếc ba lô màu đen bên trong đựng 01 cái tua vít, 01 mỏ lết, M chở V đi đến nhà anh T theo chỉ dẫn của V, khi cách nhà khoảng 100 mét, M đứng ngoài cảnh giới, V leo qua hàng rào lưới B40 vào trong nhà anh T để lấy trộm tài sản. Đến cửa bên hông nhà V lấy mỏ lết mang theo bẻ khoen khóa cửa, vào trong nhà lục lọi các phòng để tìm tài sản, lục tại tủ trong phòng ngủ phát hiện có 01 hộp đựng trang sức bên trong có 02 sợi dây chuyền và 01 đôi bông tai kim loại màu vàng để xuống tủ cạnh đó và tiếp tục tìm kiếm, V thấy có 01 chiếc máy tính bảng Ipad Pro màu đen nên lấy đưa ra ngoài cho M trước, sau đó quay lại lấy hộp đựng vàng. Sau khi lấy hộp đựng vàng ra, V vứt ba lô tại hàng rào lưới B40, ra xe M chở tẩu thoát.
Tiếp đó, M chở V đến tiệm V2 tại ấp T, xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai do anh Chí Hy P1, sinh năm 1989 làm chủ để bán 02 sợi dây chuyền, 01 đôi bông tai đựng trong hộp màu cam. Sau khi thử phát hiện vàng giả không bán được, M tiếp tục chở V đi bán IPad trộm được, trên đường đi V vứt bỏ số vàng giả ven đường. Sau đó, đưa IPad trộm được đến tiệm điện thoại di động Ngọc H tại ấp S, xã L, huyện C, tỉnh Đồng Nai do anh Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1984 làm chủ, bán được 2.200.000 đồng, V đưa cho M 1.200.000 đồng, còn V giữ 1.000.000 đồng, số tiền trên M và V đã tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 14/6/2022, Lê M bị Công an mời làm việc, qua làm việc M đã thừa nhận hành vi phạm tội. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã thu hồi số tang vật trên của vụ án, đến ngày 22/11/2022, Lê Minh b Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 115/2022/HS-ST. Riêng Đặng Hữu V đã bỏ trốn khỏi địa phương nên ngày 25/7/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã ra Quyết định truy tìm người đối với Đặng Hữu V, đến ngày 01/3/2023, Đặng Hữu V tiếp tục trộm cắp tài sản tại ấp S, xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai bị Công an huyện C bắt quả tang, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện C. Qua làm việc, V đã khai nhận cùng Lê M trộm cắp tài sản tại ấp H, xà H, thành phố L vào ngày 13/6/2022 như trên.
Quá trình điều tra, người bị hại là anh Trần Kim T còn khai bị mất thêm 01 nhẫn vàng 24k, trọng lượng 3,5 chỉ và 01 nhẫn vàng 24k, trọng lượng 5 chỉ. Tổng cộng 8,5 chỉ vàng, qua định giá có giá trị 44.200.000 đồng, hiện chưa thu hồi được tang vật, qua làm việc V và M đều không thừa nhận lấy trộm được nên không có cơ sở để xử lý.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 33/HĐĐGTSTTTHS ngày 20/6/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố L kết luận: Một máy tính Ipad pro thế hệ 3, đã qua sử dụng, đã thu hồi được tang vật (thời điểm ngày 14/6/2022), có giá trị: 10.000.000đ.
Tại bản kết luận giám định số 3745/KL-KTHS ngày 27/7/2022, Phân Viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:
+ 02 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng, tổng khối lượng 31,4193 gam, gửi giám định không tìm thấy thành phần kim loại vàng (A), B1 (A), có thành phần kim loại chủ yếu là Đ (Cu): 63,25%, K (Z): 35,78%.
+ 01 đôi bông tai bằng kim loại màu vàng có đính hạt đá màu xanh và nhiều hạt đá màu trắng, tổng khối lượng cả hạt: 3,0988 gam, gửi giám định không tìm thấy thành phần kim loại Vàng (A), B1 (A), có thành phần kim loại chủ yếu là Đ (Cu): 62,91%, K(Z): 24,31%, N1 (N): 10,94%.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 47/HĐĐGTSTTTHS ngày 12/8/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố L kết luận: 02 sợi dây chuyền, 01 đôi bông tai (kèm kết luận giám định) vàng giả, có thu hồi tang vật. Căn cứ kết luận giám định số 3745/KL-KTHS ngày 27/7/2022, của Phân Viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh thuộc Bộ C1. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố thống nhất xác định: 02 sợi dây chuyền; 01 đôi bông tai là vàng giả nên không có giá trị để định giá.
- Vật chứng thu giữ:
+ 01 máy tính Ipad pro thế hệ 3, 02 sợi dây chuyền, 01 đôi bông tai là vàng giả, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Trần Kim T và anh Lê Văn T1.
+ 01 xe máy hiệu Satria, biển số 60F3 - 290.xx, M sử dụng đi phạm tội vào ngày 13/6/2022, qua điều tra xác định tài sản trên là của bà Nguyễn Đặng T2, sinh năm 1979, nơi cư trú: Ấp H, xã H, thành phố L, là mẹ ruột của M, bà T2 không biết việc M sử dụng xe máy trên để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L đà trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bà T2.
Tại bản cáo trạng số: 136/CT-VKS ngày 28/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh đã truy tố bị cáo Đăng Hữu Vinh về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đặng Hữu V phạm tội: “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Về hình phạt: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Xử phạt: bị cáo V từ 01 (một) năm 06( sáu) tháng tù đến 02(hai) năm tù.
- Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Ngọc H yêu cầu bị cáo V bồi thường số tiền 1.000.000 đ, bị cáo đồng ý.
NHẬN ĐỊNH TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh và khung hình phạt: Tại phiên tòa bị cáo V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội này phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở xác định bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 13/6/2022, lợi dụng nhà ông Trần Kim T tại ấp H, xã H, thành phố L, tỉnh Đồng Nai đi làm, không có ai trông coi, Đặng Hữu V cùng với Lê M đã lén lút đột nhập vào nhà lấy trộm 01 máy Ipad pro thế hệ 3, có giá trị tài sản là 10.000.000d của ông Trần Kim T và trộm cắp 02 sợi dây chuyền, 01 đôi bông tai là vàng giả của ông Lê Văn T1. Như vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đăng Hữu V1 phạm tội: “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Đây là vụ án đồng phạm, trong đó bị cáo V1 là người rủ rê, lôi kéo M thực hiện hành vi phạm tội. bị cáo là người trực tiếp leo rào vào bẻ khoen khóa đột nhập vào nhà anh T lục tìm lấy trộm tài sản, M giúp sức lấy xe máy chở V1 đi trộm cắp và đứng ngoài cảnh giới và sau đó chở đi bán tài sản trộm được lấy tiền chia nhau tiêu xài. Tại bản án số 115/2022/HS-ST ngày 22/11/2022 Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh đã xét xử đối với hành vi của Lê M, riêng bị cáo V1 bỏ trốn và thực hiện hành vi phạm tội tại huyện c.
[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Bị cáo V1 là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng do mục đích tư lợi nên vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo V1 có tiền án chưa xóa án tích lại tiếp tục phạm tội là tái phạm nên phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Từ tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo nêu trên. Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian tương xứng nhằm giáo dục bị cáo trở thành người biết tuân thủ pháp luật, đồng thời răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.
[4] Về vật chứng: đã xử lý, giải quyết xong
[5] Về trách nhiệm dân sự:
Ông Nguyễn Ngọc H yêu cầu bị cáo Đặng Hữu V bồi thường số tiền 1.000.000đ, bị cáo V đồng ý nhưng hiện chưa có khả năng bồi thường, cần buộc bị cáo V phải bồi thường cho ông H 1.000.000đ theo quy định của pháp luật.
Ông Trần Kim T yêu cầu bị cáo Đặng Hữu V bồi thường 01 nhẫn vàng 24k, trọng lượng 3,5 chỉ và 01 nhẫn vàng 24k, trọng lượng 5 chỉ. Tổng cộng 8,5 chỉ vàng, qua định giá có giá trị 44.200.000đ, bị cáo V không thừa nhận việc lấy trộm được 8,5 chỉ vàng, anh T không có hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc tài sản nên không có căn cứ giải quyết.
[6] Về án phí: Bị cáo V phải nộp 200.000đ án phí HSST và 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
[7] Xét quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 ( sửa đổi bổ sung năm 2017).
- Căn cứ Điều 584, 589, Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
- Căn cứ Điều 23 và Điều 26 Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
1. Tuyên bố: Bị cáo Đặng Hữu V phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
2. Xử phạt: Bị cáo Đặng Hữu V 01 ( một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/9/2023.
3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Đặng Hữu V bồi thường cho ông Nguyễn Ngọc H số tiền là 1.000.000đ (một triệu đồng).
Kể từ ngày ông Nguyễn Ngọc H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu Đặng Hữu V chưa thanh toán xong số tiền trên thì hàng tháng còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 điều 468, nếu không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự.
4. Về án phí: Bị cáo V phải nộp 200.000đ án phí Hình sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt thì quyền kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản (02 sợi dây chuyền và 01 đôi bông tai) số 148/2023/HS-ST
Số hiệu: | 148/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về