Bản án về tội trộm cắp, sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản số 94/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 94/2023/HS-ST NGÀY 17/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP, SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận X Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 93/2023/TLST-HS ngày 06 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2023/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Tống Thị N1, sinh năm 1994; tại Tỉnh G; Hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố B, Thị trấn P, Huyện K, Tỉnh G; Nơi cư trú: 81/30-81/32 N, Phường A, Quận B, Thành phố H; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tống Đức M và bà Trịnh Thị L; con: Nguyễn Tống Hạo N2 sinh 2015; tiền án: không; tiền sự: không. Bị bắt tạm giữ từ ngày 16/4/2023 đến ngày 24/4/2023 chuyển sang tạm giam tại Trại giam T3 Công an Thành phố H; (bị cáo có mặt).

2. Võ Ngọc T, sinh năm 1994; tại Tỉnh A; Hộ khẩu thường trú: Ấp B, Xã A, Huyện C, Tỉnh A; Nơi cư trú: 6 C, Phường A, Quận C, Thành phố H; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 9/12 ; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Ngọc T1 và bà Huỳnh Ngọc Đ; tiền án: không ; tiền sự: không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 16/4/2023 đến ngày 25/4/2023 chuyển sang biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; (bị cáo có mặt).

Người bị hại: Bà Trần Mai T2, sinh năm 2000 (vắng mặt) Nơi cư trú: 648/31 C, phường A, Quận C, Thành phố H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Tống Thị N1 và Võ Ngọc T là nhân viên phục vụ nhà hàng Cc, số G T, phường V, Quận C. Vào khoảng 16 giờ 30 ngày 10/4/2023 khi đang phục vụ dọn dẹp tại phòng Vip 1 của nhà hàng thì T và N1 nhìn thấy điện thoại Iphone 14 Pro max màu tím của chị Trần Mai T2 đề trên kệ tủ nên T rủ N1 lấy trộm điện thoại của chị T2 thì N1 đồng ý rồi N1 đi ra khỏi phòng. T lấy điện thoại của chị T2 bỏ vào túi quần rồi đến phòng nhân viên cất điện thoại vừa lấy trộm được vào túi quần của N1 đang treo trong phòng nhân viên. Sau đó, N1 tiếp tục phục vụ tại phòng Vip 3 thì khoảng 30 phút sau T cũng vào V cùng với 03 nữ phục vụ khác. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, T nói với N1 đã để chiếc điện thoại lấy trộm của chị T2 vào túi quần của N1 để trong phòng nhân viên, rồi T về trước. Nhâm đi vào phòng nhân viên, thấy chiếc điện thoại Iphone của chị T2 bên trong túi quần thì N1 bỏ vào túi áo khoác rồi đem về nhà trọ tại số H N, Phường A, quận B.

Tại nhà trọ, N1 mở điện thoại của chị T2 nhưng không mở được do có mật khẩu nên T2 tắt nguồn điện thoại. Đến ngày 11/3/2023, N1 và T đến nhà hàng c để làm việc, trong lúc ngồi trong phòng nhân viên thì N1, chị T2 cùng một số nhân viên nói chuyện về việc chị T2 bị mất điện thoại. Nhâm gợi ý và hỏi mật khẩu điện thoại của T2 và chị T2 có nói những thông tin quan trọng, mật khẩu, tài khoản ngân hàng đều lưu trong phần ghi chú của điện thoại. Sau khi hết giờ làm, N1 về nhà lấy điện thoại của chị T2 đăng nhập mật khẩu mở được màn hình và vào mục ghi chú thấy mật khẩu của ngân hàng T4 do T2 đứng tên nên N1 đăng nhập vào tài khoản thấy có số tiền khoảng 120.000.000 đồng. Nhâm nổi lòng tham muốn chiếm đoạt số tiền này nhưng sợ bị phát hiện và biết ứng dụng đánh bạc online có thể nạp tiền vào tài khoản ứng dụng và rút tiền ra được nên N1 tải app trò chơi đánh bạc online “sun52” vào máy của N1, tạo tài khoản game. Sau đó, N1 dùng điện thoại của T2 đăng nhập vào tài khoản ngân hàng T4, chuyển số tiền 120.000.000 đồng vào tài khoản 19029202955011 tên Nguyễn Văn N3 trong game đánh bạc online, diễn giải giao dịch là “Cuulon” (tên nhân vật trong game) rồi N1 lấy điện thoại của N1 vào game để thực hiện thao tác rút tiền nhưng không được. Do lo sợ nên N1 xóa game đánh bạc rồi vào phần cài đặt trong máy của chị T2 để thiết lập mật khẩu Face ID (mật khẩu khuôn mặt). Đến khoảng 02 giò 14/4/2023, N1 mở điện thoại của chị T2 lên thì thấy hiện thông báo “điện thoại bị mất, Iphone này bị ăn trộm 0906001014” và điện thoại reo 2-3 tiếng tít rồi tự đổi mật khẩu máy từ 04 số “0209” thành 06 số nên N1 tắt nguồn và cất giấu trong tủ quần áo ở phòng trọ của N1. Qua theo dõi định vị I, chị T2 thấy điện thoại đang định vị tại số H N, Phường A, quận B là nhà trọ của N1 nên chị T2 đến Công an phường V, Quận C trình báo sự việc.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q, Tống Thị N1 và Võ Ngọc T khai nhận nội dung sự việc như trên.

Tại bản án Kết luận định giá tài sản số 44/KL-HĐĐGTS ngày 24/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận C kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 Pro max 246 GB, thời điểm tháng 4/2023 có giá 25.000.000 đồng.

Vật chứng của vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 14 Pro max, màu tím khám xét tạm giữ của Tống Thị N1. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q đã trả lại cho chị Trần Mai T2.

- 01 quần vải màu đen; 01 áo khoác màu vàng thu giữ của bị can N1 (đã nhập kho vật chứng).

- Số tiền 20.000.000 đồng tạm giữ của bị can N1 (đã nộp vào kho bạc nhà nước theo giấy nộp tiền tại Ngân hàng TMCP C1 ngày 09/8/2023).

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Trần Mai T2 đã nhận lại điện thoại di động và đã được gia đình của bị can Nhâm bồi thường số tiền 120.000.000 đồng nên xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị can.

Tại bản cáo trạng số 89/CT-VKS-Q3 ngày 05/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân Quận X đã truy tố bị cáo Tống Thị Nhâm về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 và điểm đ khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Võ Ngọc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay:

Các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người bị hại Trần Mai T2 có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận X đề nghị xử phạt bị cáo N1 từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù giam về tội về tội “Trộm cắp tài sản” và 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù giam về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”; xử phạt bị cáo T từ 09 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.Thời gian thử thách từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án; Tịch thu và hủy 01 quần vải màu đen, 01 áo khoác màu vàng; Giao trả số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu đồng) đồng cho bị cáo N1.

Về dân sự: Bị hại Trần Mai T2 đã nhận lại tài sản, gia đình bị cáo N1 đã bồi thường số tiền 120.000.000 đồng (một trăm hai mươi triệu đồng) cho bị hại nên xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố của Cơ quan điều tra Công an Q, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận X, kiểm sát viên đã thực hiện các hành vi, quyết định tố tụng đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Quá trình điều tra bị cáo cũng không có bất cứ ý kiến hoặc khiếu nại gì về các hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng cũng như người tiến hành tố tụng. Vì vậy có cơ sở xác định các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với nội dung Biên bản tiếp nhận nguồn tin tội phạm ngày 14/4/2023 của Công an phường V (BL262); Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp do Công an Phường V, Quận C lập ngày 16/4 /2023 (BL48,68); phù hợp nội dung các lời khai của bị hại, nhân chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra. Vì vậy đã có đủ cơ sở kết luận như sau: Lúc 16 giờ 30 phút ngày 10/4/2023 tại phòng Vip 1 của nhà hàng c số 78 T, phường V, Quận C, T và N1 là nhân viên phục vụ tại nhà hàng đã rủ nhau lấy trộm điện thoại Iphone 14 Pro max trị giá 25.000.000 đồng của chị Trần Mai T2 để trên kệ tủ, sau khi lấy trộm được điện thoại Nhâm dò hỏi chị T2 để biết mật khẩu, sau đó N1 mở được màn hình điện thoại, thông tin mật khẩu tài khoản ngân hàng T4 của chị T2 nên đã đăng nhập và chiếm đoạt số tiền 120.000.000 đồng, qua theo dõi định vị Icloud chị T2 thấy điện thoại đang định vị tại số H N, phường A, Quận B nên đến Công an phường V trình báo sự việc. Công an phường V đưa N1 và T về trụ sở lập biên bản và chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q xử lý theo thẩm quyền.

Đối với việc N1 chuyển số tiền 120.000.000 đồng vào tài khoản của Nguyễn Văn N3 trong game đánh bạc online, diễn giải giao dịch là “Cuulon” nhưng N1 không nhằm mục đích đánh bạc cũng như chưa thực hiện hành vi đánh bạc nên cơ quan điều tra không xử lý hình sự về hành vi này là có căn cứ.

Đối với Nguyễn Văn N3, qua xác minh hiện nay không có mặt tại địa phương, không rồ ở đâu. Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm, khi nào tìm được sẽ điều tra xử lý sau.

[3] Xét, các bị cáo: T biết rõ hành vi trộm cắp tài sản của người khác là sai trái, vi phạm pháp luật và bị cáo N1 biết rõ hành vi trộm cắp tài sản và sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vì lòng tham nên các bị cáo vẫn bất chấp xem thường sự trừng trị của pháp luật cố ý thực hiện việc phạm tội. Hành vi do các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã không chỉ trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương.

[4] Căn cứ từ các yếu tố nêu trên, đã có đủ cơ sở kết luận: các bị cáo đã lợi dụng sơ hở của bị hại, lén lút lấy trộm điện thoại Iphone 14 Pro max trị giá 25.000.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Sau khi lấy trộm được tài sản thì bị cáo N1 tiếp tục thực hiện hành vi đăng nhập và chiếm đoạt số tiền 120.000.000 đồng là đã phạm tội “sử mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự. Vì vậy cần phải có mức án nghiêm khắc mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục các bị cáo. Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần xem xét về nhân thân những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo để có mức hình phạt tương xứng với hành vi của mỗi bị cáo gây ra.

[5] Tuy nhiên cũng xét, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo N1, T đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn, hối lỗi, phạm tội lần và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng đối với tội “Trộm cắp tài sản”; gia đình bị cáo N1 đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b,i,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Trong vụ án này, các bị cáo không có sự câu kết chặt chẽ nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn do đó Hội đồng xét xử áp dụng Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự quy định về xử phạt trong trường hợp có đồng phạm để xem xét khi lượng hình đối với các bị cáo.

[7] Từ những cơ sở trên, nghĩ cần căn cứ Điều 50 Bộ luật Hình sự quy định về căn cứ quyết định hình phạt, Điều 38 Bộ luật Hình sự quy định về tù có thời hạn; áp dụng khoản 1 Điều 173 và điểm đ khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự quy định về khung hình phạt áp dụng; Điều 17 và Điều 58; Điều 55; áp dụng các điểm b,i,s khoản 1 Điều 51 ; khoản 1, 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự để quyết định một hình phạt tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của các bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 14 Pro max 256 GB đã trả cho bị hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Giao trả cho Tống Thị N1 số tiền 20.000.000 đồng không liên quan đến vụ án Đối với 01 quần vải màu đen; 01 áo khoác màu vàng là phương tiện phạm tội nghĩ nên tịch thu và tiêu hủy.

[9] Trách nhiệm dân sự: Bà Trần Mai T2 đã nhận lại số tiền 120.000.000 đồng (một trăm hai mươi triệu đồng) và không yêu cầu bồi thường gì thêm do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận X tại phiên tòa là phù hợp tính chất, mức độ phạm tội, phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử, nghĩ nên chấp nhận.

[11] Các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 38; Điều 50; khoản 1 Điều 173 và điểm đ khoản 2 Điều 290; Điều 17 và Điều 58; Điều 55; điểm b,i,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với Tống Thị N1.

Căn cứ Điều 50; khoản 1 Điều 173 ; Điều 17 và Điều 58; điểm i,s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với Võ Ngọc T.

Căn cứ điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ các Điều 331, 333, 336 và Điều 337 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Tống Thị N1 đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”; bị cáo Võ Ngọc T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Tống Thị Nhâm 06 (sáu) tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” và 02 (hai) năm tù giam về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù giam.Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 16/4/2023.

Xử phạt: Võ Ngọc T 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao Võ Ngọc T về cho Ủy ban nhân dân Phường A, quận C, Thành phố H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình người được hưởng án treo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo theo Khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Tịch thu và tiêu hủy 01 quần vải màu đen, 01 áo khoác màu vàng.

Giao trả số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) cho bị cáo N1.

(Tài sản tịch thu và tiêu hủy, giao trả được ghi trong Lệnh nhập kho vật chứng số 720/LNK ngày 09/8/2023 của Cơ Quan Cảnh sát điều tra Công an Q).

Buộc mỗi bị cáo chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. H trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. H trong trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án, hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Đã giải thích chế định án treo đối với bị cáo T.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp, sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản số 94/2023/HS-ST

Số hiệu:94/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:17/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về