Bản án về tội trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt tài sản (dây chuyền vàng đeo cổ) số 210/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 210/2022/HS-ST NGÀY 18/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP, LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 18/8/2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 214/2022/HSST ngày 22/7/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 293/2022/QĐXXST-HS ngày 02/8/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đậu Hoàng A; tên gọi khác: Không; sinh năm 2003 tại huyện H, tỉnh V; Nơi ĐKHKTT: Xóm K, xã H, huyện H, tỉnh V; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/12. Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đậu Xuân H và bà Nguyễn Thị S; Vợ con chưa có; A, chị em ruột có 02 người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Tiền án: không; Tiền sự: Ngày 18/04/2022, bị Công an huyện Hưng Nguyên, tỉnh V xử phạt vi phạm hành chính 4.000.000 đồng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”, thi hành xong ngày 05/05/2022. Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/05/2022 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 2003, Trú tại xóm T, xã N, huyện N, tỉnh V. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hành vi thứ nhất: Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 29/3/2022, Đậu Hoàng A rủ chị Nguyễn Thị Q, (là người yêu của Đậu Hoàng A) và anh Hồ Sỹ Th đi ăn tại Quán cơm đường N, thành phố V. Do thiếu tiền tiêu xài nên Hoàng A đã nảy sinh ý định chiếm đoạt sợi dây chuyền đeo cổ, bằng kim loại màu vàng, chế tác các hạt bi nối với nhau, có tổng khối lượng 11,25 gam tương đương với 03 (ba) chỉ, có hàm lượng vàng 99,99% của chị Q. Sau khi ăn xong, Đậu Hoàng A hỏi mượn chị Q dây chuyền để đeo, Q đồng ý và tháo sợi dây chuyền đưa cho Đậu Hoàng A đeo, sau đó, Đậu Hoàng A đi về nhà Th ngủ. Đến khoảng 08 giờ 00 phút, ngày 30/03/2022, Đậu Hoàng A nhờ Th chở đến hiệu cầm đồ “H” địa chỉ số 13, đường N, TP V cầm cố sợi dây chuyền vàng cho chị Phan Thị Điền H (sinh năm 1963, trú tại khối 10, phường L, thành phố V, V) lấy số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) rồi tiêu xài cá nhân hết. Sau đó, do quá hạn hợp đồng không thấy Đậu Hoàng A đến chuộc lại tài sản nên chị Phan Thị Điền H đã bán sợi dây chuyền cho người phụ nữ không quen biết với giá 10.500.000 đồng. Theo kết luận định giá tài sản thì sợi dây chuyền của chị Nguyễn Thị Q trị giá 16.365.000 đồng (Mười sáu triệu ba trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) Hành vi thứ hai: Vào khoảng 8h ngày 04/4/2022, Đậu Hoàng A cùng với chị Q và anh Th ngồi uống nước tại quán caffe “T” thuộc xóm 1, xã K, huyện N, tỉnh V. Chị Q hỏi Đậu Hoàng A về sợi dây chuyền vàng thì Đậu Hoàng A nói cho chị Q biết việc Đậu Hoàng A đã cầm cố sợi dây chuyền ở hiệu cầm đồ. Chị Q đòi Đậu Hoàng A trả lại sợi dây chuyền vàng nhưng do không có tiền để chuộc lại dây chuyền nên Đậu Hoàng A nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại iphone 11 của chị Q để cầm cố. Hoàng A mượn chị Quỳnh 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone 11, màu xanh ngọc và nói để gọi cho hiệu cầm đồ chuộc lại sợi dây chuyền. Tin lời Đậu Hoàng A nói là thật nên chị Q đưa chiếc điện thoại iphone 11, màu xanh cho Đậu Hoàng A. Lúc này, Đậu Hoàng A gọi điện thoại cho hiệu cầm đồ nhưng không được, sau đó, Đậu Hoàng A đưa chị Q về nhà, còn Đậu Hoàng A cầm điện thoại của chị Q đi về nhà Th ở phường C, thành phố V để ngủ. Đến khoảng 10 giờ 00 phút ngày 05/04/2022, Đậu Hoàng A nhờ Th chở đến Hiệu cầm đồ “H” trên đường N, thành phố V cầm cố chiếc điện thoại iphone 11 của chị Q cho anh Hà Đại N lấy số tiền 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng) rồi tiêu xài cá nhân hết. Sau đó, do quá hạn hợp đồng cầm cố tài sản, không thấy Đậu Hoàng A đến chuộc lại điện thoại nên anh Hà Đại N đã bán chiếc điện thoại iphone 11 cho khách qua đường với giá 7.500.000 đồng. Theo kết luận định giá tài sản thì chiếc điện thoại iphone 11 của chị Nguyễn Thị Q trị giá 13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng).

Hành vi thứ ba: Ngày 04/04/2022, sau khi mượn được điện thoại iphone 11 của chị Q thì Đậu Hoàng A cầm điện thoại của Q về nhà Th ngủ. Lúc này, Đậu Hoàng A đăng nhập mật khẩu mở máy điện thoại của chị Q bằng cách nhận diện khuôn mặt của Đậu Hoàng A (do chị Q cài đặt mật khẩu máy bằng cách nhận diện khuôn mặt chị Q hoặc nhận diện khuôn mặt Hoàng A) nên sau khi mở máy, Đậu Hoàng A vào phần cài đặt, tìm kiếm và mở mật khẩu tài khoản Ngân hàng của chị Q, phát hiện trong tài khoản của chị Q đang còn tiền nên vào chuyển tiền, nhập mật khẩu Ngân hàng bằng cách nhận diện khuôn mặt. Trên ứng dụng của Ngân hàng, chị Q cài đặt phần mềm tích hợp nhận diện khuôn mặt mở mật khẩu máy điện thoại. Sau đó, Đậu Hoàng A chọn Ngân hàng và số tài khoản thụ hưởng, chọn số tiền cần chuyển. Do chị Q cài đặt phần mềm OTP trên Agribank E- Mobile Banking nên máy tự động nhập mã OTP để chuyển tiền. Lúc này, Đậu Hoàng A tự ý chuyển số tiền 2.020.000 đồng (Hai triệu không trăm hai mươi nghìn đồng) trong số tài khoản “360720550xxxx” mở tại Ngân hàng Agribank mang tên Nguyễn Thị Q sang số tài khoản “035836xxxx” mở tại Ngân hàng Quân đội mang tên Hồ Thị Á (số tài khoản này, Đậu Hoàng A mượn thông tin của chị Á lập online để sử dụng) rồi chuyển tiếp số tiền trên sang số tài khoản “360820528xxxx” mở tại Ngân hàng Agribank mang tên Đậu Hoàng A. Số tiền này Đậu Hoàng A sử dụng thẻ để rút ra tiêu xài cá nhân hết.

Ngoài ra, Đậu Hoàng A còn có hành vi sử dụng điện thoại iphone X của mình đăng nhập vào tài khoản của chị Q, giả danh là Nguyễn Thị Q nhắn tin vào facebook Hoàng Thị Hoa mượn tiền, nhằm mục đích tiêu xài cá nhân, cụ thể như sau: Khoảng 11h ngày 06/04/2022, Đậu Hoàng A sử dụng điện thoại iphone X đăng nhập vào tài khoản facebook “QD” giả danh là chị Q nhắn tin cho tài khoản facebook “H H” của chị Hoàng Thị H (là bạn trên facebook của chị Q) hỏi mượn số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) thì chị H đồng ý và chuyển số tiền 1.000.000 đồng vào tài khoàn Ngân hàng của chị Q. Sau đó, Đậu Hoàng A đăng nhập tài khoản Ngân hàng của chị Q tìm và nhập mã OTP là ngày, tháng, năm sinh của chị Q để chuyển tiếp số tiền trên vào tài khoản của Đậu Hoàng A. Sau đó, Đậu Hoàng A đã rút tiền và tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 13/04/2022, Đậu Hoàng A tiếp tục sử dụng điện thoại iphoneX đăng nhập vào tài khoản facebook “QD” giả danh chị Nguyễn Thị Q nhắn tin đến tài khoản facebook “HH” hỏi mượn số tiền 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) thì chị H đồng ý, chuyển số tiền 1.500.000 đồng vào tài khoản Ngân hàng của chị Q. Sau đó, Đậu Hoàng A đăng nhập tài khoản của chị Q chuyển số tiền trên vào tài khoản của mình, rồi rút ra tiêu xài cá nhân hết, nhưng trị giá tài sản chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đến khoảng 16h ngày 09/05/2022, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên Đậu Hoàng A đến Công an phường H, thành phố V đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Căn cứ bản kết luận định giá tài sản số 258/KL-ĐGTS ngày 17/05/2022 của Hội đồng định giá tài sản UBND thành phố V kết luận:

“- 01 (một) dây chuyền đeo cổ, bằng kim loại màu vàng, chế tác dạng các hạt bi nối với nhau, tổng khối lượng 11,25 gam tương đương với 03 (ba) chỉ, có hàm lượng vàng 99,99%, đã qua sử dụng. Tại thời điểm ngày 29/03/2022, sợi dây chuyền có giá trị là 16.365.000 đồng (Mười sáu triệu ba trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) - 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu iphone 11, màu xanh ngọc, đã qua sử dụng. Tại thời điểm ngày 04/04/2022, điện thoại có giá trị là 13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng).

Tổng trị giá tài sản là 29.365.000 đồng (Hai mươi chín triệu ba trăm sáu mươi lăm nghìn đồng).

- Việc thu giữ, xử lý vật chứng của vụ án:

+ 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone X, 64GB, màu trắng, màn hình bị bong vỡ, không rõ số imei, không có sim, điện thoại bị hư hỏng hoàn toàn của Đậu Hoàng A do ông Đậu Xuân H (là bố đẻ của Đậu Hoàng A) giao nộp. Hiện vật chứng được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố V.

+ 01 (một) dây chuyền đeo cổ, bằng kim loại màu vàng, chế tác dạng các hạt bi nối với nhau, tổng khối lượng 11,25 gam tương đương với 03 (ba) chỉ, có hàm lượng vàng 99,99% , Đậu Hoàng A chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Q, quá trình điều tra không thu hồi được.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu iphone 11, màu xanh ngọc, Đậu Hoàng A chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Q, quá trình điều tra không thu hồi được.

+ Số tiền 2.020.000 đồng, Đậu Hoàng A chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Q và tổng số tiền 2.500.000 đồng, Đậu Hoàng A chiếm đoạt của chị Hoàng Thị H, Hoàng A đã tiêu xài hết nên không thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự: Ngày 10/05/2022, gia đình Đậu Hoàng A đã đền bù cho chị Nguyễn Thị Q số tiền 38.000.000 đồng (Ba mươi tám triệu đồng) và chị Hoàng Thị H số tiền 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng). Chị Nguyễn Thị Q và chị Hoàng Thị H không yêu cầu đền bù gì thêm.

Bản cáo trạng số 232/CT-VKS-TPV ngày 22/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự và tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51của Bộ luật hình sự xử phạt Đậu Hoàng A từ 06 đến 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 điều 52 của Bộ luật hình sự xử phạt Đậu Hoàng A từ 12 đến 15 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Căn cứ điều 55 của BLHS buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là từ 18 đến 24 tháng tù. Về xử lý vật chứng: căn cứ điều 106 của BLTTTHS: tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone X màu trắng thu giữ của Đậu Hoàng A. Về trách nhiệm dân sự: người bị hại đã nhận đền bù đầy đủ, không có yêu cầu gì thêm nên đề nghị không xem xét; buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Người bị hại có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về hành vi phạm tội: Tại phiên toà bị cáo khai nhận: Trong thời gian từ ngày 29/03/2022 đến ngày 13/04/2022, trên địa bàn thành phố V, tỉnh V, bằng thủ đoạn lén lút và gian dối, Đậu Hoàng A đã nhiều lần có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác với tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 33.885.000 đồng (ba mươi ba triệu tám trăm tám mươi lăm nghìn đồng); trong đó: 02 lần có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, gồm 01 sợi dây chuyền vàng và 01 điện thoại di động của chị Nguyễn Thị Q tổng trị giá tài sản là 29.365.000 đồng và 01 lần có hành vi trộm cắp tài sản là 2.020.000 đồng của chị Nguyễn Thị Q. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, lời khai của người bị hại và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy có đầy đủ cơ sở để khẳng định hành vi trên mà Đậu Hoàng A thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 và tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

[2.2]. Về tính chất vụ án: Vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng, hành vi của bị cáo xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện.

Về tính tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiệm trọng; sau khi phạm tội đã ra đầu thú, tác động đến gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải; người bị hại có đơn đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tính tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS. Bị cáo thực hiện hai hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội hai lần trở lên được quy định tại điểm g khoản 1 điều 52 của BLHS Vì vậy cần phải xét xử nghiêm, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian với mức hình phạt như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với tính chất nguy hiểm của hành vi, nhân thân của bị cáo.

[2.3]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận bồi thường đầy đủ, không có yêu cầu gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4]. Về xử lý vật chứng: tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone X màu trắng thu giữ của Đậu Hoàng A.

Đối với Hồ Sỹ Thắng chở Đậu Hoàng A đến hiệu cầm đồ HH để Hoàng A cầm cố sợi dây chuyền và điện thoại. Hành vi của Hồ Sỹ Th có dấu hiệu đồng phạm về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tuy nhiên, quá trình điều tra xác minh chưa xác định được lai lịch Hồ Sỹ Th nên cơ quan CSĐT Công an thành phố V đang tiếp tục điều tra, làm rõ, xử lý sau.

Đối với chị Phan Thị Điền H (chủ hiệu cầm đồ “HH”) và anh Hà Đại Ng (nhân viên hiệu cầm đồ) là người nhận cầm cố sợi dây chuyền và điện thoại do Đậu Hoàng A cầm cố. Chị H, anh Ng không biết đây là tài sản do Hoàng A phạm tội mà có nên chị H, anh Ng không phạm tội.

Đối với chị Hồ Thị Á là người cho Đậu Hoàng A sử dụng thông tin lập số tài khoản ngân hàng online, chị Á không biết việc Hoàng A mượn thông tin lập tài khoản để phạm tội nên chị Á không phạm tội.

Đối với hành vi Đậu Hoàng A giả danh là Nguyễn Thị Q, lừa mượn tiền trên facebook của chị Hoàng Thị H 02 lần vào ngày 06/04/2022 và ngày 13/04/2022, tổng số tiền 2.500.000 đồng (mỗi lần dưới 2.000.000 đồng ) nên hành vi này của Đậu Hoàng A là hành vi vi phạm hành chính, cơ quan CSĐT Công an thành phố V đã chuyển hồ sơ đến Trưởng Công an thành phố V ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Đậu Hoàng A theo điểm c khoản 1 Điều 15 Nghị định 144/2021/NP-CP của Chính phủ.

[2.5]. Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đậu Hoàng A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 điều 52 của Bộ luật hình sự xử phạt Đậu Hoàng A 12 (mười hai) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt Đậu Hoàng A 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” Căn cứ điều 55 của Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/5/2022.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điều 106 của BLTTTHS: Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone X màu trắng thu giữ của Đậu Hoàng A. (Vật chứng được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố V theo Phiếp nhập kho số 2022/233 ngày 15/8/2022.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Đậu Hoàng A phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trongs thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

107
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt tài sản (dây chuyền vàng đeo cổ) số 210/2022/HS-ST

Số hiệu:210/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:18/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về