Bản án về tội trộm cắp, cướp tài sản số 40/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIO LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 40/2023/HS-ST NGÀY 15/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP, CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 12 năm 2023, Toà án nhân dân huyện G mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 39/2023/TLST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2023, đối với bị cáo:

NTH (tên gọi khác: G), sinh ngày 03/8/1989, tại tỉnh Q; nơi ĐKNKTT và nơi ở: thôn Bích Giang, xã Cam Hiếu, huyện C, tỉnh Q; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn H và bà Trần Thị H; vợ con: chưa có; tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân bị cáo:

- Ngày 28/12/2017, bị Công an huyện C xử phạt vi phạm hành chính theo Quyết định số 18/QĐ-XPVPHC về hành vi trộm cắp tài sản với số tiền 1.500.000 đồng. Chấp hành xong hình phạt ngày 05/01/2018.

- Ngày 22/3/2019, bị Tòa án nhân dân (TAND) huyện C xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2019/HSST.

- Ngày 06/6/2019, bị TAND thành phố Đông Hà xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2019/HSST và tổng hợp hình phạt của bản án số 07/2019/HSST của TAND huyện C, buộc bị cáo chấp hành hình phạt 27 tháng tù, thi hành tại trại giam Nghĩa An, tỉnh Q. Chấp hành xong hình phạt ngày 19/01/2021, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện G, sau đó được điều chuyển đến Trại tạm giam Công an tỉnh Q từ ngày 06/6/2023 cho đến nay; có mặt.

* Bị hại:

- Chị LTP, sinh năm 1996; trú tại: Ngân hàng chính sách xã hội huyện G, khu phố 6, thị trấn G, huyện G, tỉnh Q; vắng mặt.

- Anh TMH, sinh năm 1985; trú tại: thôn Nhĩ Trung, xã Gio Hải, huyện G, tỉnh Q; vắng mặt.

- Chị NTC, sinh năm 1985 và anh TVA, sinh năm 1979; cùng trú tại: thôn Nam Hiếu, xã Cam Hiếu, huyện C, tỉnh Q; vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Lê Văn Ch, sinh năm 1994; trú tại: khu phố 4, thị trấn C, huyện C, tỉnh Q; vắng mặt.

- Anh Lý Văn H, sinh năm 1992; trú tại: thôn Mai Xá, xã Gio Mai, huyện G, tỉnh Q; vắng mặt.

- Anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1994; trú tại: số 91 Trần Phú, thị trấn Hồ Xá, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Q; vắng mặt.

- Anh H Kim T, sinh năm 1984; trú tại: khu phố 4, thị trấn C, huyện C, tỉnh Q; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, nội dung vụ án như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 03/6/2023, NTH điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát (BKS) 74G1-xxxxx của mình đi từ nhà tại thôn Bích Giang, xã Cam Hiếu, huyện C, tỉnh Q đến thị trấn G, huyện G để tìm kiếm nhà dân sơ hở nhằm trộm cắp tài sản. Khi đến khu phố 6, thị trấn G, phát hiện chị LTP là nhân viên Ngân hàng Chính sách xã hội huyện G điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Lead, BKS 38D1-xxxxx của mình rẽ vào phòng trọ thuộc khu tập thể Ngân hàng nên H đến sân bóng đá cách phòng trọ của chị P khoảng 100m ngồi đợi thời cơ đột nhập lấy trộm tài sản.

Khoảng 02 giờ 00 ngày 04/6/2023, H dựng xe ở phía trước đường, đi bộ vòng ra phía sau phòng trọ, thấy cửa sổ không có khung bảo vệ đang mở hé, nên sử dụng tuốc nơ vít mang theo sẵn, cạy cửa đột nhập vào phòng lục tìm trong túi xách màu nâu để trên bàn lấy 500.000 đồng bỏ vào túi quần. Sau đó lấy 01 điện thoại di động (ĐTDĐ) nhãn hiệu Iphone 11, màu trắng, đang sạc phía trên đầu giường cầm ở tay trái rồi đi đến tủ đựng áo quần tìm tài sản để lấy trộm thì bị chị P phát hiện. Lúc này H dùng tuốc nơ vít chỉ về phía chị P nói: “Im, đừng có la kẻo tau đâm, mật khẩu mấy?” (ý dọa chị P im lặng và hỏi mật khẩu điện thoại). Do bị đe dọa, chị P lo sợ, không nhớ chính xác mật khẩu điện thoại nên trả lời: “Ba lần 96”. Sau khi đăng nhập mật khẩu không thành công H nói: “Mật khẩu không đúng”, chị P trả lời: “Mật khẩu nớ” (ý chị P mật khẩu là 969696). H đi đến gần giường ngủ cách chị P khoảng 50cm, dùng tuốc nơ vít chỉ về phía chị P nói: “Im lặng, nằm xuống không tau đâm, trùm chăn lại” rồi tiếp tục lục tìm trong ba lô màu đen để ở trên bàn lấy 700.000 đồng bỏ vào túi quần. Thấy chị P mở chăn ra, H nói: “Trùm chăn lại kẻo tau giết” rồi đi ra theo hướng đã đột nhập, điều khiển xe mô tô đến cầu Bến Sanh thuộc khu phố 6, thị trấn G dừng xe, tháo ốp điện thoại, phát hiện phía sau có 500.000 đồng nên cất vào túi quần và vứt ốp, thẻ sim bên đường rồi về nhà.

Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 04/6/2023, H sử dụng ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung Galaxy A32 gắn kèm thẻ sim số thuê bao 0855.965.xxx, đăng ký tài khoản Zalo có tên “Trở về” gọi vào tài khoản Zalo có tên “Ch Lee” của anh Lê Văn Ch, sinh năm 1994, trú tại: khu phố 4, thị trấn C, huyện C, là bạn của H hẹn gặp nhau tại đường giữa huyện C - thành phố Đông Hà (trước đây anh Ch có trao đổi H khi nào có điện cũ hoặc mua lại được điện thoại cũ của người khác thì bán cho anh Ch). Tại đây, H bán ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone 11 của chị P (máy không mở được vì không có mật khẩu), đồng thời thỏa thuận cùng 02 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung A12, A20 (sau này H khai nhận trộm cắp ở địa bàn huyện C) với giá 2.000.000 đồng. Sau khi mua 02 máy ĐTDĐ từ H, anh Ch bán lại cho anh Lý Văn H, sinh năm 1990; trú tại: số 01A, đường Đào Duy Từ, thành phố Đông Hà là chủ cửa hàng sửa chữa điện thoại nơi anh Ch đang học việc với giá 3.000.000 đồng, còn 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung A20, anh Ch cất giữ. Khoảng 11 giờ cùng ngày, anh H bán ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone 11 cho anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1994, trú tại số 91, đường Trần Phú, thị trấn Hồ Xá, huyện Vĩnh Linh với giá 2.500.000 đồng.

Quá trình điều tra, ngoài lần thực hiện hành vi cướp tài sản, H khai nhận còn thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào các ngày 25/5/2023 và 03/6/2023 tại địa bàn huyện G và huyện C, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 18 giờ 00 ngày 25/5/2023, H điều khiển xe mô tô BKS 74G1-xxxxx của mình đi từ nhà tại thôn Bích Giang, xã Cam Hiếu, huyện C đến huyện G để tìm nhà dân quanh địa bàn xã Gio Mỹ sơ hở trộm cắp tài sản. Đến khoảng 19 giờ 30 cùng ngày, H đến địa phận thuộc thôn Lại An, xã Gio Mỹ, phát hiện quán mua bán điện thoại “H Phong” của anh TMH đóng cửa nên điều khiển xe dừng tại trạm bơm cách quán của anh H khoảng 500m rồi mang theo 01 cây kéo đã chuẩn bị sẵn đi bộ đến phía sau quán gắp chốt cửa thì mở được. H đi vào phòng ngủ thấy 01 túi xách màu hồng để trong tủ áo quần, mở lấy 1.000.000 đồng. Tiếp đó, H đi qua kệ đựng điện thoại đặt sát mép tường phía Bắc mở lấy 08 ĐTDĐ, gồm: 03 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone gồm 8 Plus màu vàng; 7 Plus màu đen; 7 Plus màu hồng; 04 ĐTDĐ nhãn hiệu Oppo gồm A77 màu đen; A57 màu xanh; A54 màu xanh; A16 màu xanh và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Xiaomi Redmi note 11 màu xanh rồi cất tất cả vào 02 túi quần đi ra cửa quán, dùng kéo gắp khoá cửa lại như ban đầu và điều khiển xe mô tô trở về nhà.

Khoảng 21 giờ 00 cùng ngày, H liên lạc qua Zalo gặp và bán cho anh Ch 03 ĐTDĐ Iphone với giá 3.000.000 đồng. Đến 08 giờ 00 ngày 26/5/2023, H bán cho anh Ch 02 ĐTDĐ nhãn hiệu Oppo A57, A54 và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Redmi note 11 với giá 1.500.000 đồng. Đến khoảng 08 giờ 00 ngày 28/5/2023, H bán tiếp cho anh Ch 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Oppo A16 với giá 500.000 đồng. Sau đó anh Ch bán cho anh H 06 ĐTDĐ với giá 3.600.000 đồng và bán cho một người đàn ông không quen biết 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Oppo A54 với giá 700.000 đồng.

Khoảng 07 giờ 00 ngày 29/5/2023, H đến quán mua bán điện thoại “T Tiến” bán 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Oppo A77 cho anh H Kim T (sinh năm 1984, trú tại khu phố 4, thị trấn C) với giá 1.500.000 đồng và nói với anh T ĐTDĐ trên là của H. Tổng số tiền H bán 08 ĐTDĐ là 6.500.000 đồng cùng 1.000.000 đồng tiền mặt, đã tiêu xài cá nhân hết.

Lần thứ hai: Khoảng 22 giờ 00 ngày 02/6/2023, H điều khiển xe mô tô của mình đi từ thành phố Đông Hà đến thị trấn C. Khi đến địa phận huyện C phát hiện nhà chị NTC (trú tại thôn Nam Hiếu, xã Cam Hiếu, huyện C) đã tắt điện, cửa chính mở nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. H điều khiển xe mô tô dừng ở đường hẻm cách nhà chị C khoảng 50m, đi bộ đến nhà chị C. Đến nơi, H nhảy qua tường rào bằng bê tông, đi đến cửa sắt làm bằng lưới B40 quan sát qua cửa sổ phát hiện người trong nhà đang ngủ nên bỏ lại đôi dép của mình đi ra phía trước đột nhập vào trong bằng cửa chính thì bị anh TVA (chồng chị C) phát hiện dùng đùi sắt đA 02 cái từ phía sau trúng vào vùng lưng, H bỏ chạy đến hội trường thôn Nam Hiếu nằm ngủ đợi thời cơ quay trở lại nhà chị C trộm cắp tài sản.

Khoảng 03 giờ 30 ngày 03/6/2023, H đi bộ trở lại nhà chị C theo lối cũ, dùng ghế nhựa đứng lên nhìn qua cửa sổ thứ nhất của phòng ngủ phát hiện 02 cha con anh A đang ngủ, trên giường có 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung A20 không gắn thẻ sim đặt ở trên đầu giường nên dùng cán chổi làm bằng tre, kéo điện thoại ra sát cửa sổ rồi lấy bỏ vào túi quần. Tiếp theo, H đi qua cửa sổ thứ hai (phía Tây của phòng ngủ) đứng lên ghế dùng tay lấy 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung A12 gắn thẻ sim số thuê bao 0944.379.046 đặt ở trên giường sát vị trí anh A đang nằm. H đi ra theo hướng đã đột nhập rồi điều khiển xe về nhà. Trên đường đi, H tháo thẻ sim của ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung A12 vứt bên đường. Đến khoảng 08 giờ 00 cùng ngày, H liên lạc qua Zalo gặp và bán cho anh Ch 02 ĐTDĐ trên nhưng chưa thỏa thuận về giá.

Kết luận định giá tài sản số 17/KL-ĐGTS ngày 06/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự (HĐĐGTSTTTHS) huyện G kết luận: “01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone 11, màu trắng, bên trong có gắn thẻ sim số 0382882425. Điện thoại được mua mới và sử dụng vào tháng 11 năm 2020 với giá 17.000.000 đồng. Trị giá còn lại của tài sản trên tại thời điểm ngày 04/6/2023 là 5.500.000 đồng; 01 ốp lưng điện thoại được mua mới vào tháng 11 năm 2020 với giá 50.000 đồng. Tại thời điểm ngày 04/6/2023, không còn giá trị”.

Kết luận định giá tài sản số 18/KL-ĐGTS ngày 08/6/2023 của HĐĐGTSTTTHS huyện G kết luận: “02 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone 7 Plus mua cũ vào tháng 02/2023 với giá 4.800.000 đồng, 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone 8 Plus, mua cũ với giá 2.600.000 đồng, 03 ĐTDĐ nhãn hiệu Oppo A77 mua mới tháng 4/2023 với giá 5.000.000 đồng, A54 mua mới tháng 4/2023 với giá 3.800.000 đồng, A57 mua mới tháng 4/2023 với giá 3.790.000 đồng, A16 mua mới tháng 4/2023 với giá 3.100.000 đồng và 01 ĐTDĐ Redmi note 11 mua cũ tháng 5/2023 với giá 1.800.000 đồng. Trị giá còn lại của các tài sản trên tại thời điểm ngày 25/5/2023 là 25.900.000 đồng”.

Kết luận định giá tài sản số 18/KL-ĐGTS ngày 15/6/2023 của HĐĐGTSTTTHS huyện C kết luận:“01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A12, màu xanh, mua mới vào tháng 6/2019 với giá 4.300.000 đồng. Trị giá còn lại của tài sản trên tại thời điểm ngày 03/6/2023 là 860.000 đồng;

01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A20, màu xanh, mua mới vào tháng 12/2021 với giá 4.100.000 đồng. Trị giá còn lại của tài sản trên tại thời điểm ngày 03/6/2023 là 2.870.00 đồng”.

Tổng trị giá các tài sản mà H trộm cắp là 30.630.000 đồng (trong đó tài sản của anh H trị giá 25.900.000 đồng và 1.000.000 đồng tiền mặt, tài sản của chị C trị giá 3.730.000 đồng).

Bản cáo trạng số 40/CT-VKS-GL ngày 13/11/2023 của VKSND huyện G, tỉnh Q đã truy tố bị cáo NTH về các tội: “Cướp tài sản” theo khoản 1 Điều 168 và tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

* Về trách nhiệm hình sự:

- Tuyên bố: bị cáo NTH (tên gọi khác: G) phạm các tội “Cướp tài sản” và “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 168; khoản 1 Điều 173; các điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo NTH từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù về tội “Cướp tài sản” và từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt chung buộc bị cáo NTH phải chấp hành từ 06 năm đến 07 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 06/6/2023.

* Về trách nhiệm dân sự: các bị hại đã nhận lại tài sản và bị cáo đã bồi thường đầy đủ theo yêu cầu của bị hại, các bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của BLHS và Điều 106 của BLTTHS:

+ Tịch thu sung công:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Sirius RC, màu đỏ đen, BKS 74G1- xxxxx, số khung: 3240HY100559, số máy: E3X9E283564 và Giấy đăng ký xe mô tô số 006921 mang tên NTH, đối với xe biển số 74G1-xxxxx cấp ngày 01/02/2018.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A32 màu đen, số IMEI 1: 355870663397393, IMEI 2: 357848353397392.

+ Tịch thu tiêu huỷ:

- 01 cây kéo dài 22cm, phần cán được làm bằng nhựa màu đỏ dài 11cm, phần mũi kéo được làm bằng kim loại màu trắng, dài 11cm, bị mài mỏng phần lưỡi một đoạn dài 7cm, trên mũi kéo có in lõm ký hiệu “P” và dòng chứ “Pjs Qualiti Life”.

- 01 cái tuốc nơ vít dẹt dài 24cm, phần tay cầm được làm bằng nhựa màu đen, hình trụ tròn có đường kính 2,5cm, dài 12cm, phần trục tuốc nơ vít được làm bằng kim loại màu đen, hình trụ tròn đường kính 0,6cm, dài 12cm, có đầu dạng dẹp.

- Thẻ sim điện thoại số 0855965xxx (trên sim có dãy số 8984020001118381xxxx) và sim điện thoại số 037871xxxx (trên sim có gẵn dãy số 898404800038xxx2588) được gắn trong điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A32.

- 01 đôi dép nhựa màu đen, mặt trên dép có dòng chữa “Tiger”, “Samdales EXPORJ”, mặt dưới dép có dòng chữ “THS 45”, kích thước mỗi chiếc dép 26x8cm, trên đôi dép có dính nhiều chất bẩn, đôi dép đã qua sử dụng.

- 01 hộp giấy màu trắng (có hoa văn) dùng để đựng điện thoại. Kích thước 17x8x4,5cm. Bên trong có nội dung Samsung Galaxy A12, SM-A127F/DS blue, ram:6GB/ROM:128GB. Imei 1: 354468772339541, Imei 2: 358183412339543.

- 01 cán chổi tre, không có phần chổi quét, cán chổi tre dài 1,03m, đầu móc chổi bằng tre, đường kín cán chổi 2,5cm, một đầu cán chổi bị vát nhọn, phần vát nhọn dài 12cm, trên cán chổi dính nhiều chất bẩn.

- 01 đùi ống sắt dài 97cm, dạng sắt ống màu trắng sáng, đùi sắt ống đã bị công gấp, đường kính đùi sắt ống 2cm, một đầu đùi sắt ống có ống nhựa vặn màu đen có đường kính 2cm gắn vào đùi sắt, ống nhựa lộ ra bên ngoài 2cm, có rãnh xoắn.

- 01 cái ghế nhựa màu tím, loại ghế cao có tựa lưng, ghế cao 0,8m, phần ghế cao cách mặt đất 0,42m, rộng 0,38m, dài 0,4m.

* Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện G, tỉnh Q, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện G, tỉnh Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo; người bị hại không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tố tụng: tại phiên toà hôm nay, các bị hại đều vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 292 BLTTHS Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị hại.

Toà án đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập tham gia phiên toà nhưng tất cả các người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà; tuy nhiên, quá trình điều tra đã thu thập đầy đủ lời khai và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì. Việc vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến kết quả xét xử vụ án nên Toà án tiến hành xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[3] Nội dung vụ án và xác định tội danh: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án, xác định: Do muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên khoảng 20 giờ 00 phút ngày 03/6/2023, bị cáo NTH đã điều khiển xe mô tô BKS 74G1-xxxxx ra thị trấn G tìm nhà dân sơ hở để trộm cắp tài sản. Khoảng 02 giờ ngày 04/6/2023 H đã cạy cửa sổ đột nhập vào phòng trọ ở khu tập thể Ngân hàng chính sách xã hội huyện G, phòng của chị LTP lục tìm trong túi xách lấy 500.000 đồng bỏ vào túi quần và tiếp tục lấy 01 điện thoại Iphone 11; khi bị chị P phát hiện, bị cáo đã dùng hung khí là tuốc nơ vít đe doạ chị P nói: “Im, đừng có la kẻo tau đâm, mật khẩu mấy?”….; “Im lặng, nằm xuống không tau đâm, trùm chăn lại” rồi tiếp tục lục tìm trong ba lô màu đen để ở trên bàn lấy 700.000 đồng bỏ vào túi quần. Thấy chị P mở chăn ra, H nói: “Trùm chăn lại kẻo tau giết” rồi đi ra theo hướng đã đột nhập, điều khiển xe mô tô đến cầu Bến Sanh dừng xe, tháo ốp điện thoại, phát hiện phía sau có 500.000 đồng nên cất vào túi quần và vứt ốp, thẻ sim bên đường rồi về nhà. Tổng giá trị bị cáo chiếm đoạt của chị P là 7.200.000 đồng (tiền mặt 1.700.000 đồng và điện thoại di động định giá tài sản là 5.500.000 đồng). Bị cáo đột nhập vào phòng trọ của chị P mục đích để trộm cắp tài sản, nhưng khi bị chị P phát hiện bị cáo sử dụng tuốc nơ vít đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc làm cho chị P lâm vào tình trạng không thể chống cự được để chiếm đoạt tài sản. Do đó, hành vi của bị cáo đã chuyển hoá thành tội “Cướp tài sản” theo quy định tại Điều 168 của Bộ Luật hình sự.

Quá trình điều tra, ngoài lần thực hiện hành vi cướp tài sản trên, H khai nhận còn thực hiện hai lần trộm cắp tài sản, gồm:

Lần thứ nhất: khoảng 19 giờ 30, ngày 25/5/2023, H đã đột nhập vào quán “H Phong” của anh TMH ở thôn Lại An, xã Gio Mỹ, huyện G lục tìm lấy trộm 1.000.000 đồng tiền mặt và 08 điện thoại di động được định giá là 25.900.000 đồng;

tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt của anh H là 26.900.000 đồng.

Lần thứ hai: Khoảng 03 giờ 30 ngày 03/6/2023, H đã trèo hàng rào vào nhà chị NTC ở thôn Nam Hiếu, xã Cam Hiếu, huyện C đứng ngoài cửa sổ dùng tay và cán chối để khèo lấy 02 điện thoại di động đang để trên giường của vợ chị C có tổng giá trị là 3.730.000 đồng.

Sau khi chiếm đoạt được các tài sản trên bị cáo đã đưa số điện thoại trên bán cho anh Lê Văn Ch và anh H Kim T tiêu xài cá nhân hết.

Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt của anh TMH và vợ chồng chị NTC là 30.630.000 đồng. Hành vi trên của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện G, tỉnh Q đã truy tố bị cáo NTH về các tội “Cướp tài sản” theo khoản 1 Điều 168 và tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] ĐA giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo:

Bị cáo NTH là người có nhân thân xấu, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản; đã 02 lần bị Tòa án xét xử về các tội “Trộm cắp tài sản” và “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; lẽ ra, sau khi chấp hành xong hình phạt bị cáo phải lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện để trở thành công dân tốt. Ngược lại, với lối sống buông thả, muốn hưởng thụ, sau khi chấp hành xong hình phạt về địa P sinh sống, vì muốn có tiền để tiêu xài cá nhân mà bị cáo liên tiếp thực hiện hành vi phạm tội mới. Qua đó, thể hiện sự coi thường pháp luật; không ăn năn, hối cải.

Hành vi nêu trên của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn gây mất trật rự, trị an trên địa bàn; gây hoang mang lo lắng cho bà con nhân dân. Vì vậy, cần có mức án thật nghiêm khắc đối với bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Trong vụ án này, anh Lê Văn Ch đã trực tiếp mua của bị cáo 10 điện thoại di động; anh H Kim T mua của bị cáo 01 điện thoại di động trong tổng số các điện thoại mà bị cáo đã chiếm đoạt; sau khi mua được điện thoại của bị cáo, anh Ch đã bán lại cho anh Lý Văn H một số cái điện thoại, anh H tiếp tục bán điện thoại Iphone 11 cho anh Nguyễn Ngọc T. Khi mua lại các điện thoại trên anh Lê Văn Ch, anh H Kim T, anh Lý Văn H và anh Nguyễn Ngọc T không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm hình sự là có căn cứ.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[5.1] Tình tiết tăng nặng: từ ngày 25/5/2023 đến ngày 04/6/2023, bị cáo NTH đã 02 lần thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản và 01 lần thực hiện hành vi cướp tài sản; các lần thực hiện hành vi đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm tương ứng nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của BLHS.

[5.2] Tình tiết giảm nhẹ: trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo; đã bồi thường đầy đủ thiệt hại theo yêu cầu của bị hại; sau khi vụ án bị phát hiện bị cáo đã tự nguyện khai báo ra hành vi Trộm cắp tài sản của mình trước đó; bị hại chị NTC có đơn đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, b, r khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. HĐXX cần cân nhắc, xem xét để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi lượng hình.

Bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm tội được đưa ra xét xử trong cùng vụ án nên khi quyết định hình phạt cần áp dụng Điều 55 của Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã thoả thuận bồi thường cho chị LTP số tiền 1.700.000 đồng; bồi thường cho anh TMH số tiền 22.400.000 đồng theo yêu cầu của bị hại. Quá trình điều tra người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã tự nguyện nộp lại một số điện thoại đã mua của bị cáo, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị LTP, anh TMH và vợ chồng chị NTC. Bị hại đã nhận lại điện thoại và số tiền bồi thường không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ một số vật chứng như mô tả và đề nghị xử lý của Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử thống nhất hướng xử lý vật chứng theo đề nghị của Viện kiểm sát, cụ thể:

- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Sirius RC, màu đổ đen, BKS 74G1-xxxxx và Giấy đăng ký xe mô tô số 006921 mang tên NTH và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A32 bị cáo sử dụng làm P tiện thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung công.

- Đối với 01 cái kéo, 01 cái tuốc nơ vít, 01 sim điện thoại 0855965xxx bị cáo sử dụng làm công cụ thực hiện hành vi phạm tội không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ.

- Đối với 01 đôi dép nhựa màu đen của bị cáo; 01 hộp giấy đựng điện thoại; 01 cán chổi tre, 01 đoạn ống sắt và 01 cái ghế nhựa của chị NTC và anh TVA, bị cáo và bị hại chị NTC không có nhu cầu nhận lại và xét thấy không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Quá trình điều tra, anh Lê Văn Ch tự nguyện giao nộp lại điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A20; anh Lý Văn H tự nguyện giao nộp lại 03 cái điện thoại hiệu, gồm: 01 điện thoại hiệu Samsung Galaxy A12, 01 điện thoại Apple loại Iphone 7 Plus và điện thoại hiệu Xiaomi kiểu máy Redmi note 11 và anh Nguyễn Ngọc T giao nộp lại điện thoại Iphone 11. Cơ quan điều tra đã trả lại các điện thoại trên cho chủ sở hữu chị LTP, anh TMH và chị NTC. Anh Lê Văn Ch, Lý Văn H và Nguyễn Ngọc T tự nguyện giao nộp tài sản và không yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét.

[8] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

[9] Áp dụng biện pháp ngăn chặn: Quyết định tạm giam của bị cáo còn dưới 45 ngày nên HĐXX cần ra quyết định tạm giam mới đối với bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 168; khoản 1 Điều 173; các điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 và khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ khoản 1 Điều 47 của BLHS và khoản 2 Điều 106 của BLTTHS;

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử:

1. Về tội danh: tuyên bố bị cáo NTH (tên gọi khác: G) phạm các tội “Cướp tài sản” “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo NTH 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản” 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội buộc bị cáo phải chấp hành là 06 (sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 06/6/2023.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu sung công:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Sirius RC, màu đổ đen, BKS 74G1- xxxxx, số khung: 3240HY100559, số máy: E3X9E283564 và Giấy đăng ký xe mô tô số 006921 mang tên NTH, đối với xe biển số 74G1-xxxxx cấp ngày 01/02/2018.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A32 màu đen, sô IMEI 1: 355870663397393, IMEI 2: 357848353397392.

3.2. Tịch thu tiêu huỷ:

- 01 cây kéo dài 22cm, phần cán được làm bằng nhựa màu đỏ dài 11cm, phần mũi kéo được làm bằng kim loại màu trắng, dài 11cm, bị mài mỏng phần lưỡi một đoạn dài 7cm, trên mũi kéo có in lõm ký hiệu “P” và dòng chữ “Pjs Qualiti Life”.

- 01 cái tua vít (tuốc nơ vít) dẹt dài 24cm, phần tay cầm được làm bằng nhựa màu đen, hình trụ tròn có đường kính 2,5cm, dài 12cm, phần trục tua vít được làm bằng kim loại màu đen, hình trụ tròn đường kính 0,6cm, dài 12cm, có đầu dạng dẹp.

- Thẻ sim điện thoại số 0855965xxx (trên sim có dãy số 8984020001118381xxxx) và sim điện thoại số 037871xxxx (trên sim có gẵn dãy số 898404800038xxx2588) được gắn trong điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A32.

- 01 đôi dép nhựa màu đen, mặt trên dép có dòng chữa “Tiger”, “Samdales EXPORJ”, mặt dưới dép có dòng chữ “THS 45”, kích thước mỗi chiếc dép 26x8cm, trên đôi dép có dính nhiều chất bẩn, đôi dép đã qua sử dụng.

- 01 hộp giấy màu trắng (có hoa văn) dùng để đựng điện thoại. Kích thước 17x8x4,5cm. Bên trong có nội dung Samsung Galaxy A12, SM-A127F/DS blue, ram:6GB/ROM:128GB. Imei 1: 354468772339541, Imei 2: 358183412339543.

- 01 cán chổi tre, không có phần chổi quét, cán chổi tre dài 1,03m, đầu móc chổi bằng tre, đường kín cán chổi 2,5cm, một đầu cán chổi bị vát nhọn, phần vát nhọn dài 12cm, trên cán chổi dính nhiều chất bẩn.

- 01 đùi ống sắt dài 97cm, dạng sắt ống màu trắng sáng, đùi sắt ống đã bị công gấp, đường kính đùi sắt ống 2cm, một đầu đùi sắt ống có ống nhựa vặn màu đen có đường kính 2cnm gắn vào đùi sắt, ống nhựa lộ ra bên ngoài 2cm, có rãnh xoắn.

- 01 cái ghế nhựa màu tím, loại ghế cao có tựa lưng, ghế cao 0,8m, phần ghế cao cách mặt đất 0,42m, rộng 0,38m, dài 0,4m.

Hiện các vật chứng trên có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Q, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/11/2023, giữa Cơ quan điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện G. Riêng giấy Đăng ký mô tô, xe máy có trong hồ sơ vụ án.

4. Về án phí: bị cáo NTH phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo đối với bản án:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp, cướp tài sản số 40/2023/HS-ST

Số hiệu:40/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gio Linh - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về