Bản án về tội tổ chức sử dụng và tàng trữ trái phép chất ma túy số 05/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 05/2022/HS-ST NGÀY 25/02/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 74/2021/TLST-HS, ngày 16 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2021/QĐXXST-HS, ngày 17 tháng 12 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/HSST-QĐ ngày 18 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2022/HSST-QĐ, ngày 10 tháng 02 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. BTD, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1994 tại Hải Phòng; ĐKNKTT: Số nhà A, đường B, phường C, quận D, thành phố Hải Phòng; chỗ ở hiện nay: Số nhà 84, đường E, phường F, quận D, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông G và bà H; có vợ là I, có một con sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 113/2014/HSST ngày 24-6- 2014 Tòa án nhân dân quân Lê Chân xử phạt 39 tháng tù về tội Gây rôi trât tư công công; bị tạm giữ từ ngày 11-6-2021; tạm giam từ ngày 16-6-2021 đến ngày 26-10- 2021 được thay đổi áp dụng biện pháp ngăn chặn: Bảo lĩnh; hiện tại ngoại; có mặt.

2. LTA, sinh ngày 21 tháng 10 năm 1995 tại Hải Phòng; ĐKNKTT và trú tại: Số nhà 125, đường J, phường K, quận L, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông M và bà N; có vợ là O, có một con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 529/2012/HSST ngày 04-12-2012 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 09 tháng cai tao không giam giư về tội Trôm căp tai san ; bị tạm giữ từ ngày 11-6- 2021; tạm giam từ ngày 16-6-2021; có mặt.

3. DMT, sinh ngày 22 tháng 10 năm 1994 tại Hải Phòng; ĐKNKTT và trú tại: Số nhà P, khu Q, phường R, quận D, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông S và bà T; có vợ là U, có một con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 11-6-2021; tạm giam từ ngày 16- 6-2021; có mặt.

- Người làm chứng: Anh NLC1; anh NLC2; anh NLC3; anh NLC4; anh NLC5; anh NLC6 và anh NLC7; đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 10-6-2021 BTD, LTA, DMT, NLC1 và một số người bạn rủ nhau ăn tối tại quán lẩu V trên đường W, quận L. Trong lúc mọi người đang ăn thì BTD gọi riêng LTA và DMT ra chân cầu thang và bàn với LTA và DMT cùng góp tiền mua ma túy Ketamine để ba người cùng sử dụng. BTD bảo LTA và DMT không nói cho ai trong nhóm biết về việc sẽ sử dụng ma túy. LTA và DMT đồng ý với BTD sẽ góp tiền mua khoảng 02 gam Ketamine về sử dụng; sau đó LTA và DMT mỗi người đưa cho BTD 300.000 (ba trăm nghìn) đồng để BTD đi mua 01 gam Ketamine về dùng trước, khi dùng hết sẽ mua tiếp. Sau khi cả nhóm ăn xong là khoảng 22 giờ cùng ngày, cả nhóm tới quán X trên đường Y, Z, L để nghe nhạc và uống rượu tiếp, còn BTD đi một mình đến khu vực đường tàu AA, D mua của một người đàn ông (chưa xác định được lai lịch) 1.000.000 (một triệu) đồng (BTD góp thêm 400.000 đồng), được 01 túi ma túy Ketamine, rồi mang đến quán X.

Tại tầng hai quán X, BTD, LTA, DMT và NLC1 ngồi cùng một bàn, còn những người bạn khác ngồi một bàn khác. Trong lúc mọi người đang ngồi uống rượu và nghe nhạc thì BTD đi xuống nhà vệ sinh tầng 1, BTD đổ một nửa túi Ketamine vừa mua ra tờ tiền Polyme mệnh giá 10.000 (mười nghìn) đồng, lượng ma túy còn lại BTD cất vào túi đeo trước ngực để sử dụng sau. BTD dùng bật lửa đánh nhuyễn số ma túy trên tờ tiền rồi đổ một ít ra mu bàn tay trái hít một hơi. Lúc này DMT cũng đi vệ sinh và nhìn thấy BTD đang sử dụng ma túy nên cũng tự đổ một ít ma túy ra mu bàn tay để DMT tự sử dụng. Sau đó BTD và DMT đi lên tầng hai của quán Bar, BTD để tờ tiền còn ma túy Ketamine ở dưới đĩa hoa quả trên mặt bàn cho LTA và DMT cùng sử dụng. Trong quá trình sử dụng ma túy do NLC1 ngồi cùng bàn với BTD, LTA, DMT nên BTD đã hỏi ý kiến LTA về việc mời NLC1 sử dụng ma túy cùng thì LTA đồng ý. BTD đã đổ một ít ma túy lên mu bàn tay trái của NLC1 để NLC1 trực tiếp hít ma túy.

Khi sử dụng hết số ma túy trên tờ tiền Polyme thì LTA vứt tờ tiền đó ra ghế sofa cạnh chỗ ngồi và hỏi BTD: “Còn ma túy không?” thì BTD trả lời: “Còn ít thôi”. LTA bảo BTD và DMT góp tiền mua thêm ma túy để sử dụng tiếp. BTD và DMT đồng ý, mỗi người đưa cho LTA 400.000 (bốn trăm nghìn) đồng để LTA liên lạc mua thêm ma túy. LTA gọi điện thoại di động cho một người bạn quen qua mạng Facebook tên AB (chưa xác định được lai lịch) hỏi mua một túi Ketamine với giá 1.200.000 (một triệu hai trăm nghìn) đồng và hẹn mang ma túy đến quán X cho LTA. Khoảng 30 phút sau, AB đến đưa ma túy cho LTA ở cầu thang tầng 1 thì lúc này DMT cũng đi vệ sinh ở tầng 1 nên LTA bảo DMT cầm túi ma túy lên bàn tầng 2, còn LTA lấy 1.200.000 đồng trả cho AB (trong đó có 800.000 đồng là tiền của BTD và DMT đưa, 400.000 đồng của LTA). Khi vào trong phòng tầng hai DMT lại đưa túi Ketamine cho BTD và nói “Bạn đánh đi”. BTD tiếp tục đi xuống nhà vệ sinh tầng 1, đổ hết chỗ ma túy Ketamine do DMT đưa vào một tờ tiền Polyme mệnh giá 10.000 đồng của BTD, rồi đánh nhuyễn bằng bật lửa, BTD sử dụng một ít. Sử dụng xong BTD cầm tờ tiền đó đi lên tầng hai của quán Bar và để tờ tiền dưới đĩa hoa quả trên mặt bàn. Thấy có ma túy DMT đổ một ít vào mu bàn tay để sử dụng, rồi chủ động đổ một ít Ketamine ra mu bàn tay của NLC1 mời NLC1 sử dụng, NLC1 đồng ý và đã hít số ma túy DMT mời. Sau đó BTD, LTA, DMT lần lượt tự lấy số ma túy mua thêm để sử dụng. Đến khoảng 23 giờ 45 phút cùng ngày tổ công tác Công an quận Hồng Bàng kiểm tra hành chính quán đã phát hiện bắt quả tang BTD, DMT, LTA, NLC1 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: Hai tờ tiền Polyme mệnh giá 10.000 (mười nghìn) đồng có bám dính tinh thể màu trắng; 01 túi nilon mép dán màu xanh, kích thước 2,5cm x 2,5cm trong đó chứa tinh thể màu trắng; 01 bật lửa và 01 túi đeo chéo nhãn hiệu GC. Ngoài ra thu giữ của BTD 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu xanh; thu giữ của DMT 01 điện thoại di động 01 Iphone 6Plus màu vàng và 01 xe môtô Biển kiểm soát 15B4 - 007.18 của LTA.

Tại Bản kết luận giám định số 384/KLGĐ- MT ngày 15-6-2021 của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: “Mẫu 01 và mẫu 02 gửi giám định đều tìm thấy dấu vết ma túy, là loại Ketamine; Mẫu 03QT gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,40 gam, là loại Ketamine”.

Kết quả xét nghiệm nước tiểu BTD, LTA, DMT và NLC1 đều dương tính với chất ma túy Ketamine.

Quá trình điều tra xác định chiếc xe môtô biển kiểm soát 15B4 - 007.18 là tài sản của chị O (vợ của LTA). Ngày 02-8-2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Hồng Bàng đã trả lại chiếc xe trên cho chị Hằng.

Về vật chứng, tài sản thu giữ: 01 phong bì niêm phong có 02 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng còn lại sau giám định của mẫu quả tang số 01 và 02; 01 bì thư niêm phong số ma túy và toàn bộ bao bì sau giám định (mẫu quả tang số 03); 01 bật lửa nhãn hiệu AC; 01 túi đeo chéo nhãn hiệu GC đã qua sử dụng; 02 chiếc điện thoại đã qua sử dụng thu giữ của BTD và DMT chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng.

Cáo trạng số 80/CT-VKSHB ngày 15-11-2021 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng đã truy tố các bị cáo: BTD, LTA và DMT về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 255 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo BTD, LTA và DMT đều khai nhận hành vi đã thực hiện phù hợp với nội dung bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng. Những người làm chứng là anh NLC1; anh NLC2; anh NLC3; anh NLC4; anh NLC5; anh NLC6 và anh NLC7 đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt không có lý do nhưng đều đã có lời khai trong hồ sơ vụ án và được công bố tại phiên tòa thể hiện đều AC với nhau về nội dung sự việc mà mình được biết, được chứng kiến, phù hợp với lời khai của các bị cáo.

Tại phiên tòa, Kiêm sat viênViện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Bị cáo BTD từ 27 đến 30 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án phạt tù. Khi thi hành án phạt tù bị cáo được trừ 04 tháng 18 ngày đã bị tạm giữ, tạm giam (từ ngày 11-6-2021 đến ngày 26-10-2021).

Căn cứ khoản 1 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Bị cáo LTA và bị cáo DMT từ 24 đến 27 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù đều tính từ ngày 11-6-2021.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo và buộc các bị cáo đều phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng của vụ án.

Đối với NLC1 là người được mời sử dụng ma túy không phải đóng góp gì, quá trình sử dụng ma túy NLC1 không mời ai nên Công an quận Hồng Bàng đã ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Đối với NLC5, là chủ quán X có hành vi cho quán Bar hoạt động quá giờ quy định và để xảy ra việc sử dụng trái phép chất ma túy tại quán. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng đã đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận Hồng Bàng xem xét xử phạt hành chính theo quy định.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho BTD và đối tượng tên AB bán ma túy cho LTA, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng chưa xác định được lai lịch nên tiếp tục tách ra làm rõ xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Hồng Bàng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng và Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng và Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Tại phiên tòa, những người làm chứng gồm anh NLC1; anh NLC2; anh NLC3; anh NLC4; anh NLC5; anh NLC6 và anh NLC7 đều vắng mặt không có lý do. Xét thấy, những người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ; các bị cáo và Kiểm sát viên đều đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt người làm chứng do trước đó những người này đều đã có lời khai tại cơ quan điều tra và việc vắng mặt của những người này không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ vào Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với người làm chứng.

- Về nhận định các tình tiết của vụ án:

[3] Về tội danh: Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ ngày 10-6-2021, tại tầng 2 của quán X (số nhà 21 - 22, đường Y, phường Z, quận L) các bị cáo: BTD, LTA và DMT có hành vi tổ chức cho NLC1 sử dụng trái phép chất ma túy, qua giám định xác định là chất Ketamine bị tổ công tác thuộc Công an quận Hồng Bàng phát hiện, bắt quả tang. Do vậy, hành vi của các bị cáo: BTD, LTA và DMT đã đủ yếu tố cấu thành đồng phạm tôi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 255 Bộ luật Hình sự như nội dung Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng đã truy tố là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Tính chất của vụ án là nghiêm trọng; hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm, buộc các bị cáo cách ly xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục các bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Các bị cáo cùng nhau thực hiện tội phạm nên phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm theo Điều 17 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, khi quyết định hình phạt cần xem xét, đánh giá về vai trò của từng bị cáo trong đồng phạm và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo để phân hóa tội phạm cũng như áp dụng mức hình phạt tương xứng theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Hình sự.

- Về vai trò, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

[6] Trong vụ án, bị cáo BTD là người đề xuất, khởi xướng việc góp tiền mua ma tuý và là người trực tiếp đi mua ma túy về để cả nhóm sử dụng. Bị cáo đã trực tiếp mời để NLC1 sử dụng ma túy. Nhân thân bị cáo đã có một tiền án đã được xóa án như đã nêu trong phần căn cước của bị cáo ở đầu bản án.

[7] Bị cáo LTA cũng là người cùng góp tiền để đưa cho bị cáo BTD đi mua ma túy và cũng là người gọi điện thoại để mua ma túy mang đến quán sử dụng cho cả nhóm sử dụng. Bị cáo cũng biết và đồng ý để bị cáo BTD và bị cáo DMT mời NLC1 sử dụng ma túy. Nhân thân bị cáo đã có một tiền án đã được xóa án như đã nêu trong phần căn cước của bị cáo ở đầu bản án.

[8] Bị cáo DMT là người góp tiền cùng bị cáo BTD và bị cáo LTA để mua ma túy và là người trực tiếp mời NLC1 sử dụng ma túy một lần, nhân thân không có tiền án, tiền sự.

[9] Từ những phân tích đánh giá nêu trên cần xác định bị cáo BTD là người có vai trò cao nhất; bị cáo LTA có vai trò thấp hơn bị cáo BTD và cao hơn so với bị cáo DMT. Do vậy hình phạt đối với bị cáo BTD là cao nhất, hình phạt đối với bị cáo LTA là thấp hơp so với bị cáo BTD và cao hơn so với bị cáo DMT.

[10] Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đều thành khẩn khai báo nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Gia đình bị cáo BTD là gia đình có công với cách mạng, đang thờ cúng liệt sĩ nên bị cáo BTD được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[11] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[12] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 255 Bộ luật Hình sự. Xét các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không xác định được các bị cáo có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

- Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác:

[13] Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng, cụ thể: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; 01 túi nilon mép dán màu xanh, kích thước 2,5 x 2,5 cm chứa chất ma túy; 01 bật lửa nhãn hiệu AC. Trả lại cho bị cáo BTD 01 túi đeo chéo nhãn hiệu GC và 01 điện thoại di động Iphone 11 Promax màu xanh. Trả lại cho bị cáo DMT 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu vàng. Tịch thu sung quỹ nhà nước 02 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng có bám dính chất ma túy.

[14] Đối với NLC1 là người được mời sử dụng ma túy không phải đóng góp gì, quá trình sử dụng ma túy NLC1 không có hành vi mời ai sử dụng ma túy nên Công an quận Hồng Bàng đã ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

[15] Đối với NLC5, là chủ quán X có hành vi cho quán Bar hoạt động quá giờ quy định và để xảy ra việc sử dụng trái phép chất ma túy tại quán. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng đã đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận Hồng Bàng xem xét xử phạt hành chính theo quy định.

[16] Đối với người đàn ông bán ma túy cho BTD và đối tượng tên AB bán ma túy cho LTA, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng chưa xác định được lai lịch nên tách ra làm rõ xử lý sau.

[17] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo BTD, LTA và DMT đều phải chịu mỗi người 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Bị cáo BTD 27 (hai mươi bảy) tháng tù về tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án phạt tù. Khi thi hành án phạt tù bị cáo được trừ 04 tháng 18 ngày đã bị tạm giữ, tạm giam (từ ngày 11-6-2021 đến ngày 26-10- 2021).

Căn cứ khoản 1 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Bị cáo LTA 25 (hai mươi lăm) tháng tù về tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 11-6-2021.

Căn cứ khoản 1 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Bị cáo DMT 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 11-6-2021.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; 01 túi nilon mép dán màu xanh, kích thước 2,5 x 2,5 cm chứa chất ma túy; 01 bật lửa nhãn hiệu AC.

- Trả lại cho bị cáo BTD 01 túi đeo chéo nhãn hiệu GC và 01 điện thoại di động Iphone 11 Promax màu xanh. Trả lại cho bị cáo DMT; 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu vàng.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 02 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng có bám dính chất ma túy.

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 80/QĐ-VKSHB ngày 15-11-2021 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17- 11-2021 giữa Công an quận Hồng Bàng và Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc các bị cáo: BTD, LTA và DMT đều phải nộp mỗi người 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo BTD, LTA và DMT có mặt tại phiên tòa đều có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

799
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng và tàng trữ trái phép chất ma túy số 05/2022/HS-ST

Số hiệu:05/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về