Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 914/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 914/2022/HS-PT NGÀY 28/09/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2022 tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 651/2022/TLPT-HS ngày 23 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo Bùi Văn Q do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 126/2022/HS-ST ngày 15 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

- Bị cáo có kháng cáo:

BÙI VĂN Q, sinh năm: 1993; giới tính: Nam; ĐKNKTT và nơi ở: huyện N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: không xác định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Bùi Văn X(tức Y) và bà Vũ Thị Z(tức K); vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: 23/7/2020 công an huyện Gia Lâm xử phạt hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ 26/11/2021; có mặt.

- Trong vụ án còn có các bị cáo Bùi Nam T, Trần Minh U, Trần Anh N, Bùi Thị G, Thân Đình I, Bế Thủy E không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị tòa không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 24 tháng 11 năm 2021, tổ công tác Công an phường Tây Mỗ nhận được tin báo tại căn hộ KĐT Vinhome Smartcity, phường Tây Mỗ, Nam Từ Liêm có nhiều nam, nữ thanh niên bật nhạc lớn, có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra phát hiện trong phòng có 07 nam, nữ thanh niên gồm Bùi Nam T, Bùi Văn Q, Trần Minh U, Trần Anh N, Bùi Thị G, Lò Thị B và Triệu Đức H có biểu hiện “phê” ma túy. Tại chỗ các đối tượng khai nhận đang cùng nhau sử dụng ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản tạm giữ, niêm phong tang vật, dẫn giải các đối tượng cùng vật chứng về trụ sở Công an phường Tây Mỗ để điều tra làm rõ.

Vật chứng thu giữ của Bùi Nam T: 01 túi nilon màu trắng chứa tinh thể màu trắng; 01 vỏ túi nilon màu trắng, 01 tẩu hút cuốn bằng tờ tiền polyme mệnh giá 20.000 đồng, 01 thẻ nhựa màu trắng và 01 đĩa sứ; 01 bật lửa gas màu đỏ; 01 đèn chiếu màu đen; 01 đèn chiếu quay Laze hình trụ màu đen; 01 loa hiệu Harman Kardon; 01 loa màu đen hiệu Samsung; 01 loa cây màu đen nhãn hiệu Samsung;

01 điện thoại hiệu Iphone 6, màu vàng gold lắp sim số 0985.542.xxx và điện thoại của các đối tượng.

Quá trình điều tra xác định:

Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 23/11/2021, Bùi Nam T, Bùi Văn Q, Trần Minh U, Trần Anh N, Bùi Thị G (bạn gái U) và Lê Thị B (bạn gái N) rủ nhau đi ăn uống tại một quán ăn thuộc quận Hà Đông, Hà Nội. Sau khi ăn xong, khoảng 03 giờ 00 phút ngày 24/11/2021, cả nhóm đi hát Karaoke tại quán Begin thuộc quận Hà Đông. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 24/11/2021, cả nhóm hát xong thì U đứng ra thanh toán hết số tiền 6.100.000 đồng và cùng thống nhất sẽ chia đều số tiền này cho cả T, U, N và Q. Lúc này, do mệt nên G và B về phòng trọ trước còn T, Q, U và N về sau. Trong khi chờ thanh toán, T bảo với U, Q và N: “Anh em đi bay tí” thì cả ba người đều hiểu ý đi “bay” là đi sử dụng trái phép chất ma túy nên đồng ý và Cả bốn người gồm: T, U, Q và N thống nhất cùng góp tiền mua ma túy để cùng sử dụng. T sẽ ứng tiền ra trước, sau khi chơi xong sẽ chia đều cho cả bốn người. Sau đó, T sử dụng số điện thoại của mình là 0985.542.xxx gọi điện đến số 0963.024.xxx cho Bế Thuỷ E để đặt thuê phòng. T hỏi E: “Còn phòng không? Để cho một phòng”; E biết T muốn thuê phòng để sử ma túy nên đồng ý và hỏi T có cần loa, đèn hay không thì T trả lời có. Sau đó, E hẹn T đến KĐT Vinhome Smartcity thì gọi cho E xuống đón lên phòng. Sau khi đặt được phòng T bảo U và N về đón thêm G, B đi cùng cho vui thì tất cả đều đồng ý. N gọi điện thoại cho B và bảo: “Lên Vinhome chơi với bọn anh”, lúc này B hiểu ý của N lên để sử dụng ma túy nên đồng ý. Sau đó, N cùng T đón xe taxi đến đón B rồi cùng nhau đến KĐT Vinhome Smartcity. U và Q đón xe taxi sang phòng trọ của G rồi cùng đi ăn sáng. U bảo G: “Đi lên Vinhome chơi với bọn anh một tí” thì G đồng ý rồi cả nhóm đón xe taxi đến KĐT Vinhome Smartcity. Sau khi đến nơi T liên hệ và được E đưa lên phòng. Sau khi vào phòng E thông báo tiền thuê phòng và loa, đèn hết 2.500.000 đồng thì được U chuyển số tiền nói trên đến tài khoản ngân hàng MB Bank mang tên “BE THUY E”, Số tài khoản: 27112838xxxxx.

Lúc này do có ý định gọi thêm Triệu Đức H là gái dịch vụ tại các quán Karaoke đến sử dụng ma túy cùng nên T bảo E mua cho 07 viên ma túy “kẹo” và 01 chỉ Ketamine. E đồng ý và thống nhất giá tiền là 400.000 đồng/ 01 viên ma túy “kẹo” và 4.000.000 đồng/ 01 chỉ Ketamine, tổng cộng hết 6.800.000 đồng. T đồng ý rồi lấy ra số tiền trên đưa cho E để đi mua ma túy. Khoảng hơn 12 giờ cùng ngày, E gọi điện thoại bảo T xuống sảnh đón người mang ma túy lên phòng. T quay sang bảo G: “Em xuống đón người hộ anh” thì G đồng ý rồi cầm thẻ thang máy xuống sảnh tòa nhà đón một người phụ nữ (không rõ nhân thân lai lịch) lên phòng. Khi vào phòng người này để lên mặt bàn 01 túi nilon chứa ma túy “kẹo” và 02 túi nilon chứa ma túy Ketamine thì T bảo người này đổ ma túy “kẹo” ra để kiểm đếm rồi nhờ người này “xào” 01 túi Ketamine để cả nhóm sử dụng. Sau khi “xào” Ketamine xong, người này đi ra khỏi phòng, T gọi U, Q, N, G và B từ phòng ngủ ra để sử dụng ma túy. B sử dụng 01 mảnh nhỏ ma tuý “kẹo” và 02 đường Ketamine bằng cách dùng tẩu hút.

Sau khi sử dụng ma túy, T gọi điện thoại cho Thân Đình I (là quản lý của Triệu Đức H) và bảo I: “Anh cho H lên Vinhome Tây Mỗ để đi bay với em”, lúc này I nghe trong điện thoại có tiếng nhạc và biết T muốn thuê H đi “bay” là đi sử dụng ma túy nên đồng ý và thống nhất giá tiền là 200.000 đồng/ giờ, sau khi H về thì I sẽ gửi số tài khoản cho T để chuyển trả tiền. Sau đó, I quay sang bảo H: “Em lên Vinhome Tây Mỗ đi làm với T”, thì H hiểu ý của I là điều H đến Vinhome Tây Mỗ để cùng sử dụng ma túy với T nên đồng ý. I cho H số điện thoại của T để liên lạc và gọi xe taxi đưa H đến gặp T. Sau khi H đến KĐT Vinhome Smartcity gọi cho T xuống đón thì T bảo G: “Em xuống đón bạn anh lên phòng”. G xuống rồi đưa H lên phòng để ngồi và sử dụng ma túy cùng T. Khi vào phòng, T đưa cho H 1/2 viên ma túy kẹo để H sử dụng, sau đó H lấy đĩa sứ và sử dụng thêm 04 đường Ketamine. Lúc này thấy Q ngồi một mình nên T hỏi Q có muốn gọi thêm một gái dịch vụ đến sử dụng ma túy cùng hay không thì Q đồng ý. T quay sang bảo H gọi thêm một gái dịch vụ đến để ngồi cùng Q thì H đồng ý rồi gọi qua Messenger cho một phụ nữ tên R (không rõ nhân thân lai lịch, sử dụng tài khoản “An L”) đến phòng. Sau khi đến R ngồi cùng Q và có sử dụng 02 đường Ketamine, sau đó do Q không thích R nên đã bảo R ra về. Sau khi sử dụng hết túi Ketamine đầu tiên, T cho một phần túi Ketamine còn lại ra đĩa rồi bảo G “xào” để mọi người sử dụng. G dùng bật lửa đốt nóng đĩa rồi dùng thẻ cứng “xào” và đặt lên đệm để T, Q và H sử dụng. Đến khoảng 19 giờ 30 phút ngày 24/11/2021, Tổ công tác Công an phường Tây Mỗ kiểm tra, phát hiện và đưa các đối tượng về trụ sở để làm rõ.

Tại Bản kết luận giám định số 8374 ngày 02/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự (PC09) - Công an thành phố Hà Nội, kết luận:

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông là ma túy loại Ketamine, khối lượng 0,145 gam.

- 01 đĩa sứ hình tròn màu trắng, 01 tẩu hút tự tạo bằng tờ tiền 20.000 đồng, 01 thẻ nhựa màu trắng và 01 vỏ túi nilông đều dính ma túy loại Ketamine.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Nam T, Bùi Văn Q, Trần Minh U, Trần Anh N, Bùi Thị G và Thân Đình I đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, lời khai phù hợp với lời khai của những người liên quan, biên bản kiểm tra hành chính, biên bản tạm giữ đồ vật, lời khai của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác trong hồ sơ vụ án.

Đối với Triệu Đức H: Được T thuê đến để sử dụng trái phép chất ma túy. Theo yêu cầu của T, H gọi cho một phụ nữ tên R đến ngồi và sử dụng ma túy cùng với Q. Tuy nhiên, H và những người này không rõ nhân thân lai lịch của R nên Cơ quan điều tra chưa đủ căn cứ làm rõ. H không bàn bạc, góp tiền khi sử dụng ma túy do đó hành vi không đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

Đối với Lò Thị B: Sử dụng ma túy Ketamine và ma túy “Kẹo” tại phòng khi được rủ đến, không bàn bạc, góp tiền khi sử dụng ma túy. Do đó, hành vi của B không đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

Cơ quan Cảnh sát điều tra đã xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý đối với Triệu Đức H và Lò Thị B.

Các tài liệu điều tra không đủ cơ sở kết luận việc Bế Thủy E cầm số tiền 6.800.000 đồng và liên hệ để mua số ma túy.

Đối với căn hộ Vinhome Smartcity theo lời khai của Bế Thủy E có liên quan đến đối tượng Hoàng Phú Đ và Nguyễn Quang O. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tách vụ án hình sự số 10 đối với các tài liệu liên quan đến hành vi Nguyễn Quang O và Hoàng Phú Đ để tiếp tục điều tra và xử lý sau.

Với nội dung trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 126/2022/HSST ngày 15/7/2022 Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Áp dụng : Điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt: Bùi Văn Q 07 (bảy) năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày 26/11/2021.

Ngoài ra bản án còn quyết định hình phạt của các bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 28/7/2022 bị cáo Bùi Văn Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, nhận thức được hành vi phạm tội và mong hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt. Gia đình bị cáo xuất trình tài liệu gia đình có công với cách mạng.

Đại diện viện kiểm sát thành phố Hà Nội có quan điểm:

Căn cứ lời khai của các bị cáo và các tài liệu có trong hồ sơ thì tòa án sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Bùi Văn Q với tội danh: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, điểm b khoản 2 điều 255 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, gia đình xuất trình tài liệu mới gia đình có công cách mạng và xét vai trò của bị cáo trong vụ án có vai trò thấp nhất so với các bị cáo T, U và N. Vì vậy hình phạt tòa án sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc nên đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Văn Q, giảm hình phạt cho bị cáo còn 04 đến 05 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hình thức: Kháng cáo của bị cáo Bùi Văn Q trong thời hạn quy định của pháp luật nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Về nội dung:

Căn cứ lời khai của bị cáo Q tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của các bị cáo khác tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và các tài liệu khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm đã xét xử các bị cáo Bùi Nam T, Bùi Văn Q, Trần Minh U, Trần Anh N tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 điều 255 Bộ luật hình sự. Bùi Thị G, Thân Đình I tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo khoản 1 điều 255 Bộ luật hình sự. Bế Thủy E tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm d khoản 2 điều 256 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Bùi Văn Q hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi của bị cáo cùng các bị cáo khác tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý về ma túy của nhà nước, góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội nên tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định hình phạt tù cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm là phù hợp, có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét về vai trò trong vụ án thì bị cáo Bùi Nam T là người khởi xướng việc mua ma túy, ứng tiền và thuê phòng để sử dụng. Các bị cáo Trần Minh U và Trần Anh N thống nhất cùng góp tiền mua và gọi thêm người đến cùng sử dụng. Bị cáo Bùi Văn Q đồng phạm với vai trò đồng ý góp tiền mua ma túy. Như vậy trong nhóm các bị cáo phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo khoản 2 điều 255 Bộ luật hình sự thì bị cáo Q có vai trò thấp nhất, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo xuất trình tài liệu gia đình có công với cách mạng nên cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy xét thấy mức hình phạt mà tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, có cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, áp dụng thêm điều 58, điều 54 Bộ luật hình sự, sửa bản án hình sự sơ thẩm của tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, giảm hình phạt cho bị cáo Bùi Văn Q như đề nghị của Viện kiểm sát thành phố Hà Nội tại phiên tòa.

Bị cáo Bùi Văn Q được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 điều 355, điểm c khoản 1 điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH/14 ngày 30/12/2016 về án lệ phí tòa án.

- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Văn Q. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 126/2022/HSST ngày 15/7/2022 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, giảm hình phạt cho bị cáo Bùi Văn Q.

Áp dụng điểm điểm b khoản 2 điều 255; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điều 58; điều 38; điều 54 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bùi Văn Q 05 (năm) năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày 26/11/2021.

- Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

- Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 914/2022/HS-PT

Số hiệu:914/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về