TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TH, TỈNH B
BẢN ÁN 87/xxx3/HS-ST NGÀY 13/11/xxx3 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 13 tháng 11 năm xxx3, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Th xét xử sơ thẩm công khai hình thức trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm đã thụ lý số: 79/xxx3/TLST-HS, ngày 10/10/xxx3, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/xxx3/QĐXXST-HS, ngày 30/10/xxx3 đối với bị cáo:
Nguyễn Phan Hoàng B, sinh năm 2001.
HKTT: Xóm 8, xã M, huyện Y, tỉnh Ng; trình độ văn hoá: 9/12; nghề nghiệp:
Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: B; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt B; con ông Nguyễn Hữu Thuận, sinh năm 1974 và bà Phan Thị D, sinh năm 1973; bị cáo là con duy nhất trong gia đình; chưa có vợ.
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 20/3/2019 bị Công an huyện B, tỉnh S phạt 3.750.000đ về hành vi tàng trữ hàng cấm (pháo nổ).
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/7/xxx3 đến nay (có mặt tại điểm cầu trực tuyến tại Trại tạm giam Công an tỉnh B).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: A Trần Đăng H, sinh năm 1979.
Trú tại: Thôn Ngọ Xá, xã H, Th, B (vắng mặt).
Người tham gia tố tụng khác: Ông Hoàng Phương B, cán bộ tin học.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16h30’ ngày 07/7/xxx3, tại phòng trọ số 7 nhà anh Trần Đăng H, sinh năm 1979 ở thôn Ngọ Xá, xã H, thị xã Th. Công an thị xã Th hành kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Nguyễn Phan Hoàng B đang có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho Nguyễn Văn L, sinh năm 1995 trú tại: Vàng Thôn, xã Xuân Lai, huyện Gia Bình, tỉnh B. Tại thời điểm bắt quả tang còn có Nguyễn Đắc Hải A, sinh năm 1997 ở thôn Ngăm Mạc, xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình, tỉnh B có mặt trong phòng. Thu giữ tại mặt chiếu trải trên giường gồm có:
+ 01 mảnh giấy bạc màu trắng, trên bề mặt mảnh giấy bạc có bám dính chất màu nâu được niêm phong vào phong bì thư ký hiệu M1.
+ 01 túi nilon màu trắng viền kẻ màu đỏ, bên trong túi có chứa 01 viên nén hình tròn màu hồng và chất tinh thể màu trắng được niêm phong vào phong bì thư ký hiệu M2.
+ 01 vỏ chai nước nhãn hiệu Sting màu đen trên nắp chai có gắn 02 ống hút bằng nhựa màu trắng và màu hồng.
+ 01 bật lửa ga màu đỏ.
+ 01 điện thoại di động hiệu REALME màu xanh, gắn sim số 039640xxxx của B.
+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen của L.
Công an thị xã Th tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng và gửi giám định.
Tại Kết luận giám định số: 1453/KL - KTHS, ngày 09/7/xxx3 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B đã kết luận:
“+ Chất màu nâu bám dính trên mảnh giấy bạc màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu M1 gửi giám định có khối lượng là 0,1108 gam; Là ma túy; Loại ma túy Methamphetamine.
+ Chất tinh thể màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu M2 gửi giám định có khối lượng là 0,1463 gam; Là ma túy; Loại ma túy Methamphetamine.
+ 01 viên nén hình tròn màu hồng bên trong phong bì thư ký hiệu M2 gửi giám định có khối lượng là 0,1144 gam; Là ma túy; Loại ma túy Methamphetamine”.
Tại Cơ quan điều tra bị cáo Nguyễn Phan Hoàng B khai nhận: B thuê phòng trọ số 7 nhà Trần Đăng H để ở trọ. B là đối tượng sử dụng ma túy đá, ma túy ngựa từ tháng 5/xxx3 đến nay. Khoảng 16h ngày 07/7/xxx3, B đang ở phòng trọ thì có L và Hải A đến chơi. Ngồi nói chuyện với L và Hải A một lúc thì B nảy sinh ý định sử dụng ma túy đá, ngựa. B nghe có người nói ở khu vực Khu công nghiệp Th II có người bán ma túy nên B có ý định mua về sử dụng. B nói với L và Hải A ở phòng, B đi có việc riêng một lúc. Sau đó B đi bộ ra bãi đất trống thuộc Khu công nghiệp Th II để mua ma túy. Đến nơi B gặp một người thanh niên dáng gầy giống người nghiện, khoảng 30 tuổi đứng ở rìa đường, B đến gần hỏi người thanh niên: “anh có hàng không?” ý hỏi có ma túy không. Người thanh niên trả lời:
“có”. B nói: “để cho em 2 nước, 1 ngô”, tức B hỏi mua 200.000đ tiền ma túy đá và 100.000đ tiền ma túy ngựa, người thanh niên trên đồng ý và đưa cho B 01 túi nilon màu trắng, viền kẻ màu đỏ, bên trong có chứa tinh thể màu trắng, 01 viên nén màu hồng. B cầm và cất vào túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi đưa cho anh ta 300.000đ. Sau khi mua được ma túy, B đi bộ về phòng trọ thấy L và Hải A vẫn đang ngồi trên giường nói chuyện với nhau. B trèo lên nóc nhà tắm trong phòng trọ lấy 01 vỏ chai nước nhãn hiệu Sting, nắp màu đen, trên nắp chai có gắn 02 ống hút nhựa màu hồng và màu trắng (B chuẩn bị từ trước), 01 bật lửa ga màu đỏ, 01 mảnh giấy bạc màu trắng ở trong phòng trọ để làm công cụ sử dụng ma túy. B ngồi lên giường cùng với L và Hải A, B lấy túi ma túy ở trong túi quần bên phải ra và đổ một phần ma túy đá và 01 mảnh ma túy ngựa ra mảnh giấy bạc. B dùng bật lửa đốt mảnh giấy bạc để ma túy nóng chảy bốc hơi, B cầm vỏ chai nước Sting có gắn ống hút để hít hơi ma túy bốc lên từ mảnh giấy bạc. B hít được 02 hơi thì dừng lại. B rủ L và Hải A sử dụng ma túy thì L đồng ý, còn Hải A sử dụng. B đưa vỏ chai nước Sting có gắn ống hút cho L. L cầm vỏ chai nước Sting, B cầm mảnh giấy bạc có chứa ma túy và lấy bật lửa ga màu đỏ đốt nóng dưới tờ giấy bạc để ma túy nóng chảy bốc hơi nên. Sau đó B cầm mảnh giấy bạc để vào 1 đầu ống hút gắn ở chai Sting, còn đầu ống hút còn lại L ngậm vào miệng và hút một hơi. Khi B và L đang sử dụng ma túy thì bị Công an thị xã Th đến kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.
Bản cáo trạng số: 83/CT-VKS, ngày 10/10/xxx3 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Th đã truy tố Nguyễn Phan Hoàng B về tội “tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo khoản 1, điều 255 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Th sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Phan Hoàng B về tội “tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, điều 255; điều 38; điểm s, khoản 1, 2 điều 51; điều 47 của Bộ luật hình sự; điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự xử phạt B từ 24 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/7/xxx3. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đựng mẫu vật sau giám định, có đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B; 01 vỏ chai nước nhãn hiệu Sting màu đen trên nắp chai có gắn 02 ống hút bằng nhựa màu trắng và màu hồng; 01 bật lửa ga màu đỏ.
Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu REALME màu xanh, gắn sim số 039640xxxx, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Bị cáo nhận tội, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an thị xã Th,Viện kiểm sát nhân dân thị xã Th đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có khiếu nại gì. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng trên đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, bản kết luận giám định và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16h30’ ngày 07/7/xxx3, tại phòng trọ số 7 nhà anh Trần Đăng H ở thôn Ngọ Xá, xã H, thị xã Th. Nguyễn Phan Hoàng B đã có hành vi cung cấp ma túy và tổ chức cho Nguyễn Văn L sử dụng trái phép chất ma túy, thu giữ bộ dụng cụ sử dụng ma túy và 0,3715 gam Methamphetamine các đối tượng chưa sử dụng hết. B khai nếu không bị Công an kiểm tra sẽ tiếp tục cùng L sử dụng hết số ma túy nêu trên. Hành vi của Nguyễn Phan Hoàng B đã phạm tội “tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”, phạm vào khoản 1, điều 255 của Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thị xã Th đã truy tố là đúng người, đúng tội.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm sức khoẻ và sự phát triển giống nòi của dân tộc, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, ma tuý cũng là nguyên nhân phát triển các tội phạm hình sự khác.
Xét về nhân thân bị cáo thì thấy: Ngày 20/3/2019 bị Công an huyện B, tỉnh S phạt 3.750.000đ về hành vi tàng trữ hàng cấm. Ngày 21/3/2019 đã nộp phạt. Bởi vậy, cần phải có một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Xét thấy, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay đã thành khẩn khai báo, ông nội bị cáo là thương binh 2/4, đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy, cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt.
[3] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4] Về vật chứng: Xét thấy số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ.
Đối với bộ dụng cụ để sử dụng ma túy, xét thấy đây là công cụ phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy.
Cơ quan điều tra có thu giữ 01 điện thoại di động REALME màu xanh, gắn sim số 0396.404.xxx của bị cáo, xét thấy đây là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến vụ án, cần trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Cơ quan điều tra có thu giữ 01 điện thoại di động Samsung màu đen, gắn sim số 098735xxxx của Nguyễn Văn L, xét thấy không liên quan đến vụ án, Cơ quan điều tra đã trả cho L chiếc điện thoại trên, nên không xem xét.
Về nguồn gốc số ma túy: B khai mua của một người đàn ông không quen biết ở khu công nghiệp Th II. B không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, làm rõ.
Đối với số lượng 0,3715 gam ma túy Methamphetamine Công an thị xã Th đã thu giữ. B khai nếu không bị Công an thị xã Th kiểm tra, phát hiện sẽ tiếp tục sử dụng và mời Nguyễn Văn L sử dụng hết, nên hành vi của B không cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma tuý” là phù hợp.
Đối với anh Trần Văn H là chủ nhà trọ không biết B sử dụng ma túy trong phòng trọ nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với anh H là phù hợp.
A H yêu cầu B phải trả tiền thuê trọ là 1.900.000đ, xét thấy yêu cầu của anh H không liên quan đến vụ án nên không xem xét. A H có quyền khởi kiện để giải quyết bằng một vụ án khác nếu có yêu cầu.
Đối với anh Nguyễn Đắc Hải A là người đi cùng L vào phòng trọ của B, nhưng anh Hải A không sử dụng ma túy. Vì vậy, Cơ quan điều tra không xử lý đối với anh Hải A là phù hợp.
Trong vụ án này Nguyễn Văn L đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng trọ cùng B ngày 07/7/xxx3. Ngày 04/10/xxx3 Công an thị xã Th đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính L về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1, Điều 23, Nghị định 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ, hình thức cảnh cáo là phù hợp pháp luật.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phan Hoàng B phạm tội "tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý".
Áp dụng khoản 1, điều 255; điều 38; điểm s, khoản 1, 2 điều 51; điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, khoản 2, điều 106; điểm a, khoản 3, điều 106; khoản 1, 3 điều 329; điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về án phí, lệ phí Toà án.
Xử phạt: Nguyễn Phan Hoàng B 26 (hai mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/7/xxx3. Tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày 13/11/xxx3 để đảm bảo thi hành án.
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đựng mẫu vật sau giám định, có đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B; 01 vỏ chai nước nhãn hiệu Sting màu đen trên nắp chai có gắn 02 ống hút bằng nhựa màu trắng và màu hồng; 01 bật lửa ga màu đỏ.
Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu REALME màu xanh, gắn sim số 039640xxxx, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 87/2023/HS-ST
Số hiệu: | 87/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về