Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 66/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 66/2024/HS-ST NGÀY 29/01/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 65/HSST ngày 11 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2024, Quyết định hoãn phiên toà số 35/2024/HSST-QĐ ngày 16/01/2024 đối với bị cáo:

1. Vũ Bá A; sinh ngày 14/6/1972 tại huyện Bình Gi, tỉnh H; Nơi ĐKNKTT: Thôn My Thữ, xã Vĩnh Hồng, huyện Bình Gi, tỉnh H; Nơi tạm trú: Tiểu khu Ch, thị trấn N, huyện M, tỉnh S; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Khôg; con ông Vũ Bá Chuyên (đã chết) và bà Phạm Thị Lan (đã chết); bị cáo có vợ là Đỗ Thị Liễu, sinh năm 1977 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 1997;

Tiền án: Bản án hình sự số 52/2020/HS-ST ngày 20/4/2020 của Toà án nhân dân huyện Mộc Châu đã xử phạt Vũ Bá A 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/6/2023 đến nay, có mặt tại phiên toà.

2. Nguyễn Văn Đ; sinh ngày 10/8/1981 tại huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương; Nơi ĐKNKTT: Thôn C, xã H, huyện N, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Nguyễn Văn Tráng và bà Ngô Thị Nụ; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Từ và có 02 con (con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2014); tiền án: Không;

Tiền sự: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 03/QĐ-XPHC ngày 05/02/2023 của Công an xã Hồng Dụ, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;

Nhân thân: Bản án hình sự số 24/2011/HS-ST ngày 13/7/2011 của Toà án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương đã xử phạt Nguyễn Văn Đ 27 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích).

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/6/2023 đến nay, có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo Vũ Bá A: Ông Đỗ Văn Th, là Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Sơn La. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Đ: Ông Đàm Mạnh H, là Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Sơn La. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Lê Thị H; sinh năm 1980; địa chỉ: Tiểu khu Ch, thị trấn N, huyện M, tỉnh S. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Cháu Giàng A P (tên gọi khác: Giàng A Phương - 13 tuổi); địa chỉ: Bản Pa Cốp, xã V, huyện V, tỉnh S. Người đại diện theo pháp luật: Anh Giàng A L; sinh năm 2003; địa chỉ: Bản Pa Cốp, xã V, huyện V, tỉnh S. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 04/04/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vân Hồ nhận được đơn tố giác, tin báo về tội phạm của Công an xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ với nội dung: Vào khoảng 21 giờ 50 phút ngày 04/4/2023 ông Vàng A Dê, sinh năm 1982, trú tại bản Pa Cốp, xã V, huyện V, tỉnh S, đi xe máy qua khu vực bản Pa Cốp, xã V, huyện V, tỉnh S thì phát hiện 03 người đàn ông, trong đó 01 người đã tử vong nằm trên lề đường bên trái theo hướng xã Vân Hồ đi xã Xuân Nha, huyện Vân Hồ.

Kết quả điều tra, xác minh ban đầu xác định 03 người đàn ông gồm: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1981, trú tại Thôn C, xã H, huyện N, tỉnh H; Vũ Bá A, sinh năm 1972, trú tại thôn My Thữ, xã Vĩnh Hồng, huyện Bình Gi, tỉnh H; chỗ ở hiện nay: Tiểu khu Ch , thị trấn Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La và Phan Đức Q, sinh năm 1984, trú tại Tiểu khu Ch, thị trấn N, huyện M, tỉnh S (trong đó có một người đã tử vong).

Ngày 05/4/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vân Hồ thành lập Hội đồng khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy mẫu trưng cầu giám định. Hiện trường chung được xác định là nhà của Giàng A Ch, sinh năm 1940, thuộc bản Pa Cốp, xã V, huyện V, tỉnh S. Phía bắc giáp nhà Giàng A Chư, sinh năm 1974, phía nam giáp nhà ông Giàng A Hua, sinh năm 1977, phía đông giáp đồi núi, phí tây giáp đường tỉnh lộ 101.

Tại hiện trường phát hiện hiện một tử thi xác định là Phan Đức Q, sinh năm 1984, trú tại Tiểu khu Ch, thị trấn N, huyện M, tỉnh S; vật chứng thu giữ 02 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh giấy bạc, 01 mũi kim tiêm, 01 lọ thủy tinh bên trong đựng chất lỏng màu trắng, 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy, 01 lọ thủy tinh đựng chất lỏng, 58.000 đồng thu giữ trong túi quần của Q và một số đồ vật liên quan khác. Trong quá trình khám nghiệm hiện trường, tử thi (có vẽ sơ đồ và chụp một số kiểu ảnh).

Kết quả khám nghiệm tử thi Phan Đức Qxác định: Tại khoang ngực hai bên không có dịch, phổi hai bên xung huyết. Mổ bao tim thấy tim co chắc, xung huyết, bề mặt có nhiều lớp suất huyết, kích thước (9 x 8 x 4,5) cm, trong buồng tim đó nhiều máu không đông. Trong dạ dày chứa nhiều dịch màu đen, niêm mạc xung huyết mạnh. Quá trình khám nghiệm có lấy máu và phủ tạng của Phan Đức Qđể giám định.

Tại bản Kết luận giám định số: 207/276/23/KL-PYQG ngày 13/4/2023 của Viện pháp y Quốc gia kết luận mẫu phủ tạng và máu của Phan Đức Q:

“1. Mẫu phủ tạng: Có tìm thấy Morphin và Codein. Không tìm thấy các chất độc khác.

2. Mẫu máu: Có tìm thấy Morphin và Codein. Có tìm thấy Ethanol với hàm lượng 16,13 mg/100ml. Không tìm thấy các chất độc khác nêu trên”.

Tại bản Kết luận giám định số: 808/16/MBH ngày 17/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận đối với Phan Đức Q: “Tim xung huyết, xuất huyết, thoái hóa, hoại tử. Phổi phù, xung huyết, thâm nhiễm viêm. Gan xung huyết, thoái hóa, viêm mạn tính. Thận và tuyến thượng thận xung huyết, xuất huyết mạnh; Dạ dày xung huyết, xuất huyết, viêm mạn tính”.

Tại bản Kết luận giám định số: 952/KL ngày 09/5/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Nguyên nhân chết của Phan Đức Q: Sốc phản vệ Morphin không hồi phục. Bệnh lý kèm theo viêm gan mạn tính”.

Tại bản kết luận giám định số: 2784/KL ngày 24/4/2023 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận đối với vật chứng thu giữ khi khám nghiệm hiện trường:

“- Tìm thấy chất ma túy Heroine bám dính trên mảnh nilon màu xanh và mảnh giấy bạc gửi giám định. Lượng mẫu bám dính ít, không xác định được khối mẫu;

- Không tìm thấy chất ma túy trên các mẫu Mũi kim tiêm, ống thủy tinh gửi giám định”.

Quá trình điều tra Nguyễn Văn Đ và Vũ Bá A khai nhận như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 04/4/2023, Vũ Bá A đang ở nhà tại Tiểu khu Ch, thị trấn N, huyện M, tỉnh S thì Phan Đức Qgọi điện thoại và sang nhà Q chơi, A đồng ý. Khi A sang nhà Q thì gặp Nguyễn Văn Đ, Q hỏi A “có Heroine bán không? Nếu có thì bán cho Q một ít để chiêu đãi Đ” nhưng A bảo không có, Q bảo có biết chỗ nào bán Heroine không, dẫn Q và Đ đi mua về cùng sử dụng, A đồng ý. Sau đó Q đưa 200.000đ và 01 xe máy cho A điều khiển chở Đ và Q đến bản Pa Cốp, xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Trên đường đi Q đưa cho Đ 10.000đ bảo vào quầy thuốc mua xi lanh và thuốc NOVOCAIN, Đ cầm tiền đi vào quầy thuốc của Bùi Thị Th, sinh năm 1979, trú tại tiểu khu Chiềng Đi, thị trấn Nông Trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu mua 02 xi lanh và 03 ống NOVOCAIN. Sau đó cả ba tiếp tục đi đến đường tỉnh lộ 102 thuộc địa phận bản Pa Cốp, xã Vân Hồ thì bị tổ công tác đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La yêu cầu dừng xe kiểm tra. Kết quả Vũ Bá A có nồng độ cồn trong hơi thở nên bị tổ công tác lập biên bản vi phạm hành chính và tạm giữ xe máy.

Sau khi bị giữ xe, cả ba tiếp tục đi bộ vào nhà của Giàng A Ch, sinh năm 1940, trú tại bản Pa Cốp, xã V, huyện V, tỉnh S thì gặp Giàng A P, sinh năm 2010 (Phong là cháu nội của Chú). A nhờ Phong mua hộ Heroine nhưng Phong không đồng ý mà đi vào bếp thì A đi theo năn nỉ nhờ nên Phong đồng ý. A đưa cho Phong 200.000 đồng để nhờ mua hộ 100.000 đồng Heroine. Phong cầm tiền đi bộ trong bản Pa Cốp, xã V, huyện V, tỉnh S thì gặp một người phụ nữ dân tộc Mông, khoảng 25 tuổi (Phong không biết họ tên, địa chỉ). Phong hỏi mua 100.000 đồng Heroine người phụ nữ đồng ý, Phong đưa cho người phụ nữ 200.000 đồng, người phụ nữ đưa cho Phong 01 gói Heroine bọc bằng nilon màu xanh và trả lại 100.000 đồng. Sau đó Phong cầm gói ma túy và 100.000 đồng mang về nhà để xuống phản chỗ A ngồi. Lúc này A xin Phong sử dụng ma túy tại nhà Chú thì Phong đồng ý. A bảo Đ chia gói ma túy ra hai phần, để cho A một nửa, Đ và Q một nửa. Đ lấy gói ma túy mở ra bẻ một nửa và bẻ hai ống NOVOCAIN cho vào xi lanh lắc đều tạo thành dung dịch ma túy, còn để lại một nửa cho A. Sau đó Đ chia 1/3 Heroine đã pha vào một xi lanh khác đưa cho Q thì Q nhờ Đ chích hộ. Đ đồng ý chích Heroine vào đường tĩnh mạch tay trái của Q, khi Đ chích gần hết số dung dịch ma túy trong xi lanh cho Q thì dừng lại và hỏi Q có muốn chích nữa thì tự chích. Chích xong thì Q đứng dậy đi ra ngoài, Đ tự chích cho bản thân nốt số dung dịch ma túy còn lại, lúc này A lấy 01 mảnh giấy bạc đốt 1/2 Heroin Đ để lại và hít vào cơ thể.

Sử dụng ma túy xong Đ đi ra ngoài thì thấy Q đang đứng ở sân, Q bảo Đ đi xuống đường đón taxi (trước đó Q đã gọi điện cho Lưu Bá Duy, sinh năm 1992, trú tại tiểu khu Cấp 3, thị trấn Nông trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu là lái xe taxi) nên Đ xuống đường trước. Còn A thì thu dọn 01 xi lanh, 02 lọ nước NOVACAIN đã sử dụng cho vào bếp lửa đang cháy, rồi đi ra ngoài thì thấy Q đang nằm bất tỉnh tại góc sân. Nghi ngờ Q bị sốc ma túy nên A chạy lại hô hấp nhân tạo cho Q. Do không thấy taxi Đ quay lại thấy vậy cùng A hô hấp nhân tạo cho Q nhưng Q không tỉnh nên cùng nhau đưa Q ra đường để đón taxi đưa đi viện cấp cứu, tuy nhiên khi đang đợi xe taxi thì Q đã tử vong.

Về nguồn gốc số ma túy A, Đ và Q sử dụng, A và Đ đều khai nhờ Giàng A P mua của một người phụ nữ dân tộc Mông. Quá trình điều tra Phong khai không biết họ, tên và địa chỉ và cũng như số thuê bao điện liệu chứng cứ khác để tiếp tục làm rõ.

Đối với Phan Đức Qlà người rủ rê, đưa tiền và xe máy để Vũ Bá A chở Q và Nguyễn Văn Đ đi tìm mua ma túy, đưa tiền cho Nguyễn Văn Đ đi mua xi lanh, ống nước NOVOCAIN để sử dụng ma túy, nhờ Nguyễn Văn Đ đưa ma túy vào cơ thể. Hành vi của Nguyễn Đức Q có dấu hiệu tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại khoản 2 Điều 255 BLHS, với vai trò là người chủ mưu, khởi xướng. Tuy nhiên Phan Đức Qđã chết nên không đề cập xử lý trách nhiệm hình sự đối với Phan Đức Q.

Đối với Giàng A P, là người đã thực hiện hành vi đi tìm mua Heroine cho các bị cáo Vũ Bá A, Nguyễn Văn Đ sau đó cho phép A, Đ và Q sử dụng ma túy tại nhà ở thuộc quyền quản lý, sử dụng của Giàng A Ch. Hành vi trên của Giàng A P có dấu hiệu của tổ chức, chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên tính đến thời điểm xảy ra vụ án thì Giàng A P chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (theo kết luận giám định số 2729/KLGĐ ngày 24/4/2023 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an Giàng A P đang ở độ tuổi 13 tuổi 03 tháng đến 13 tuổi 09 tháng).

Đối với Giàng A Ch, sinh năm 1940, trú tại bản Pa Cốp, xã V, huyện V, tỉnh S là chủ nhà và là ông nội của Giàng A P, theo lời khai của A, Đ thì khi đến nhà Chú chỉ gặp Giàng A P. A đã gặp Phong trao đổi nhờ tìm mua ma túy giúp A, Đ, Q cùng sử dụng ma túy thì Chú đang nằm ngủ trong nhà. Căn cứ tài liệu, chứng cứ đã điều tra thu thập xác định Chú không biết, không liên quan đến hành vi mua bán, tổ chức, chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy của A, Đ, Q nên không có căn cứ xử lý về trách nhiệm hình sự, dân sự, hành chính đối với Giàng A Ch.

Trách nhiệm dân sự: Bà Lê Thị H, bà Nguyễn Thị H (là mẹ đẻ và vợ của Phan Đức Q). Sau khi biết Phan Đức Qtử vong do sốc ma túy nên không yêu cầu các bị cáo cũng như chủ nhà bồi thường gì về tổn thất tinh thần cũng như tiền mai táng phí.

Tại bản Cáo trạng số 187/CT-VKS-P1 ngày 07/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố đối với các bị cáo Nguyễn Văn Đ và Vũ Bá A về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 255 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Bị cáo Nguyễn Văn Đ và Vũ Bá A: Nhất trí với nội dung cáo trạng đã truy tố đối với các bị cáo, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã thể hiện tại Cáo trạng và không khai báo thêm nội dung nào khác.

- Kiểm sát viên trình bày luận tội: giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo như cáo trạng đã quy kết và đề nghị:

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h, o khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Bá A từ 15 đến 16 năm tù.

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 255, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 16 đến 17 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về vật chứng:

+ Tịch thu tiêu huỷ: 03 que Test ma tuý của Nguyễn Văn Đ, Vũ Bá A, Giàng A P (Phương); 01 lọ thuỷ tinh dòng chữ NOVOCAIN, 01 chiếc áo khoác màu xanh đã qua sử dụng; 01 chiếc mũ bảo hiểm màu đen; 01 chiếc giày da bên phải màu đen, 01 chiếc áo khoác đen, 01 chiếc áo thun màu xám, 01 chiếc phong bì bên trong gồm các mẫu giám định gồm 01 túi ni lon màu trắng chứa 01 mảnh nilon màu xanh; 01 túi nilon màu trắng chứa 01 mảnh giấy bạc, 01 mũi kim tiêm và các mảnh thuỷ tinh, 01 túi nilon màu trắng chứa 01 mảnh nilon màu xanh và 01 mảnh giấy bạc cả hai mặt đều có vết màu đen (bị đốt cháy);

+ Đối với 01 chiếc điện thoại di động màu xanh nhãn hiệu Oppo thu giữ của Phan Đức Qtrả lại cho vợ của Phan Đức Qlà chị Lê Thị H.

+ Số tiền 158.000đ trong đó thu giữ của Vũ Bá A 100.000đ và thu trong túi quần của Phan Đức Q58.000đ, đề nghị tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước.

- Các bị cáo đề nghị cho Luật sư trình bày lời bào chữa trước:

- Luật sư Đỗ Văn Th trình bày lời bào chữa cho bị cáo Vũ Bá A: Nhất trí với truy tố của Viện kiểm sát về tội danh và điều khoản áp dụng cũng như mức hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo Vũ Bá A mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là từ 15 đến 16 năm tù.

Bị cáo Vũ Bá A nhất trí với lời bào chữa của luật sư và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Luật sư Đàm Mạnh H trình bày lời bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Đ: Nhất trí với luận tội của Viện kiểm sát về tội danh và điều khoản áp dụng. Về hình phạt đề nghị xem xét trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, là đối tượng nghiện ma tuý, gia đình hoàn cảnh khó khăn đồng thời bị cáo có vai trò thấp trong vụ án lỗi thuộc về người bị hại, bị cáo không có tình tiết tăng nặng do đó mức hình phạt Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là cao, đồng thời mẹ của Phan Đức Qcũng có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do đó luật sư đề nghị xử phạt bị cáo ở mức khởi điểm của khung hình phạt là 15 năm tù.

Bị cáo Nguyễn Văn Đ nhất trí với lời bào chữa của luật sư và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố vụ án đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bào chữa cho các bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo và trách nhiệm hình sự:

[2.1] Xét lời khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo tại phiên tòa đồng nhất với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, đã thể hiện: Ngày 04/4/2023 Phan Đức Qđã có hành vi rủ rê, đưa tiền, xe máy cho Vũ Bá A chở Phan Đức Qvà Nguyễn Văn Đ đi tìm mua ma túy và đưa tiền cho Nguyễn Văn Đ đi mua xi lanh, ống thuốc NOVOCAIN để cùng nhau sử dụng ma túy. Vũ Bá A gặp và nhờ Giàng A P mua hộ ma túy và mượn Phong địa điểm là nhà của Giàng A Ch (là ông Nội Phong) để cho Nguyễn Văn Đ, Phan Đức Qvà Vũ Bá A cùng nhau sử dụng ma túy. Vũ Bá A tự sử dụng ma túy bằng hình thức đốt, hít, còn Nguyễn Văn Đ lấy bơm kim tiêm, nước cất và chất ma túy hòa trộn với nhau, khi được Q nhờ đã tiêm trích ma túy vào cơ thể giúp Phan Đức Qsau đó Đ tiếp tục tự chích ma túy vào cơ thể mình, ngày sau khi sử dụng ma túy thì Phan Đức Qbị sốc ma túy dẫn đến tử vong.

[2.2] Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau: Lời khai của các bị cáo phù hợp lẫn nhau, phù hợp với lời khai của người liên quan là Giàng A P; phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường hồi 00 giờ 05 phút ngày 05/4/2023 tại bản Pa Cốp, xã V, huyện V, tỉnh S, cùng bản ảnh hiện trường; đồ vật, tài liệu tạm giữ hồi 01 giờ 10 phút ngày 05/4/2023 tại bản Pa Cốp, xã V, huyện V, tỉnh S;

Lời khai của các bị cáo phù hợp với:

- Kết luận giám định số 952/KLGĐTT-PC09 ngày 09/5/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “nguyên nhân chết của Phan Đức Q: Sốc phản vệ Morphin không hồi phục; bệnh lý kèm theo: Viêm gan mạn tính”;

- Kết luận giám định số 808/16/MBH ngày 17/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “ Tim xung huyết, xuất huyết, thoái hoá, hoại tử; phổi phù, xung huyết, thâm nhiễm viêm; Gan xung huyết, thoái hoá, viêm mạn tính; Thận và tuyến thượng thận xung huyết, xuất huyết mạnh; Dạ dày xung huyết, xuất huyết, viêm mạn tính”.

- Kết luận giám định số 207/KLGĐĐĐC-PYQG ngày 13/4/2023 của Viện Pháp y Quốc gia kết luận:

“1. Mẫu phủ tạng:

- Có tìm thấy Morphin và Codein.

- Không tìm thấy các chất độc khác nêu trên.

2. Mẫu máu:

- Có tìm thấy Morphin và Codein.

- Có tìm thấy Ethanol với hàm hượng 16.13mg/100ml.

- Không tìm thấy các chất độc khác nêu trên”.

- Kết luận giám định số 2729/KL-KTHS ngày 24/4/2023 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an về độ tuổi của Giàng A P, kết luận: “Căn cứ quá trình khám giám định, kết quả cận lâm sàng, đánh giá mức độ phát triển thể chất, sự phát triển và cốt hoá của hệ thống các xương và răng, xác định Giàng A P (Phương) có độ tuổi tính đến thời điểm giám định (4/2023) là: 13 năm 03 tháng đến 13 năm 09 tháng”.

- Kết luận giám định số 2784/KL-KTHS ngày 24/4/2023 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: “tìm thấy chất ma tuý Heroine bám dính trên mảnh nilon màu xanh và mảnh giấy bạc trong phong bì ghi: “mảnh nilon màu xanh và mảnh giấy bạc” (mẫu 3) gửi giám định. Lượng mẫu bám dính ít, không xác định được khối lượng mẫu”.

- Không tìm thấy chất ma tuý trên các mẫu trong phong bì ghi: “Mảnh nilon màu xanh” (mẫu 1) và phong bì ghi: “Mũi kim tiêm, ống thuỷ tinh và mảnh giấy bạc” (mẫu 2) gửi giám định.” - Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến sự việc bắt giữ đối với các bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và tài liệu, chứng cứ đã được Cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Với các căn cứ chứng minh trên có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Vũ Bá A, Nguyễn Văn Đ cùng với Phan Đức Qđã có hành vi cùng nhau chuẩn bị dụng cụ, phương tiện, ma tuý, địa điểm nhằm mục đích sử dụng trái phép chất ma tuý dưới hình thức chích, hút, hậu quả Phan Đức Qđã tử vong. Các bị cáo đều có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do đó hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Vũ Bá A đã phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với tình tiết “gây chết người” quy định tại điểm a khoản 3 Điều 255 Bộ luật Hình sự có mức hình phạt tù từ 15 năm đến 20 năm, thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng.

[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Các bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện chất ma túy;

[3.2] Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Văn Đ đã 01 lần bị kết án nhưng đã xóa án (Bản án số 24/2011/HSST ngày 13/7/2011 của Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, xử phạt 27 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy); ngày 05/02/2023 bị Công an xã Hồng Dụ, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

[3.3] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Vũ Bá A có 1 tiền án (tại Bản án số 52/2020/HSST ngày 20/4/2020 của Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, xử phạt Vũ Bá A 30 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy), bị cáo phạm tội trong thời gian chưa được xoá án tích do đó đã vi phạm tình tiết tăng nặng “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; đồng thời bị cáo Vũ Bá A đã nhờ Phong mua hộ Heroine nhưng Phong không đồng ý mà đi vào bếp thì A đi theo năn nỉ nhờ nên Phong đồng ý mua hộ, thời điểm này Giàng A P đang ở độ tuổi 13 tuổi 03 tháng đến 13 tuổi 09 tháng. Giàng A P không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 12 Bộ luật Hình sự. Do đó, bị cáo Vũ Bá A phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thứ 02 quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội”. Bị cáo Nguyễn Văn Đ không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3.4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, là căn cứ xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Nguyễn Văn Đ có đơn xin giảm nhẹ hình phạt của mẹ Phan Đức Qnên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Xét tính chất mức độ, hành vi phạm tội và vai trò của các bị cáo:

[4.1] Các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn là tội phạm rất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm phát sinh các tệ nạn xã hội, nhất là tội phạm ma tuý gây mất trật tự an toàn chính trị xã hội tại địa phương.

[4.2] Xét vai trò của các bị cáo: Vụ án có đồng phạm. Các bị cáo Vũ Bá A, Nguyễn Văn Đ cùng với Phan Đức Qđã có hành vi cùng nhau chuẩn bị dụng cụ, phương tiện, ma tuý, địa điểm nhằm mục đích sử dụng trái phép chất ma tuý dưới hình thức trích, hút. Hành vi phạm tội của các bị cáo là đồng phạm với tính chất giản đơn. Trong đó, Phan Đức Q(đã chết) là người khởi xướng, chuẩn bị tiền, sau đó đưa tiền cho Nguyễn Văn Đ mua xi lanh, nước NOVOCAIN, đưa tiền cho Vũ Bá A mua ma tuý; Vũ Bá A là người đưa tiền nhờ Giàng A P đi mua ma túy giúp đồng thời đặt vấn đề với Phong xin được sử dụng ma túy tại địa điểm là nhà của Giàng A Ch (ông nội của Phong, do Phong ở cùng với ông Chú) để sử dụng ma tuý. Nguyễn Văn Đ là người chia ma túy để A sử dụng bằng cách đốt hít, Đ và Q sử dụng bằng cách trích vào tĩnh mạch, khi được Q nhờ thì Đ đã sử dụng xi lanh chứa dung dịch Heroine chích vào đường tĩnh mạch tay trái của Q và Đ tự chích ma túy cho bản thân. Do đó, Vũ Bá A và Nguyễn Văn Đ là đồng phạm có vai trò và mức độ phạm tội ngang nhau. Trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đảm bảo cải tạo và giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 255 Bộ luật Hình sự: Xét thấy các bị cáo không có việc làm, thu nhập ổn định nếu áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) thì các bị cáo cũng không có điều kiện để thi hành, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6] Đối với các đối tượng có liên quan:

[6.1] Đối với Phan Đức Qlà người rủ rê, đưa tiền và xe máy để Vũ Bá A chở Q và Nguyễn Văn Đ đi tìm mua ma túy, đưa tiền cho Nguyễn Văn Đ đi mua xi lanh, ống nước NOVOCAIN để sử dụng ma túy, nhờ Nguyễn Văn Đ đưa ma túy vào cơ thể. Hành vi của Nguyễn Đức Q có dấu hiệu tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại khoản 2 Điều 255 BLHS, với vai trò là người chủ mưu, khởi xướng. Tuy nhiên Phan Đức Qđã chết nên không xử lý trách nhiệm hình sự đối với Phan Đức Q.

[6.2] Đối với Giàng A P, là người đã thực hiện hành vi đi tìm mua Heroine cho các bị cáo Vũ Bá A, Nguyễn Văn Đ sau đó cho phép A, Đ và Q sử dụng ma túy tại nhà ở thuộc quyền quản lý, sử dụng của Giàng A Ch. Hành vi trên của Giàng A P đủ yếu tố cấu thành tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Tuy nhiên tính đến thời điểm xảy ra vụ án thì Giàng A P chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (theo kết luận giám định số 2729/KLGĐ ngày 24/4/2023 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an Giàng A P đang ở độ tuổi 13 tuổi 03 tháng đến 13 tuổi 09 tháng).

[6.3] Đối với Giàng A Ch, sinh năm 1940, trú tại bản Pa Cốp, xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ tỉnh Sơn La là chủ nhà và là ông nội của Giàng A P, kết quả điều tra xác định Chú không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của A, Đ, Q nên không có căn cứ xử lý về trách nhiệm đối với Giàng A Ch.

[7] Sau khi biết Phan Đức Qtử vong do sốc ma túy nên Bà Lê Thị H, bà Nguyễn Thị H (là vợ và mẹ đẻ của Phan Đức Q) không yêu cầu các bị cáo cũng như chủ nhà bồi thường gì về tổn thất tinh thần cũng như tiền mai táng phí.

[8] Về xử lý vật chứng, đồ vật, tài sản:

+ Đối với 03 que Test ma tuý của Nguyễn Văn Đ, Vũ Bá A, Giàng A Phương;

01 lọ thuỷ tinh dòng chữ NOVOCAIN, 01 chiếc áo khoác màu xanh đã qua sử dụng; 01 chiếc mũ bảo hiểm màu đen; 01 chiếc giày da bên phải màu đen, 01 chiếc áo khoác đen, 01 chiếc áo thun màu xám, 01 chiếc phong bì bên trong gồm các mẫu giám định gồm 01 túi ni lon màu trắng chứa 01 mảnh nilon màu xanh;

01 túi nilon màu trắng chứa 01 mảnh giấy bạc, 01 mũi kim tiêm và các mảnh thuỷ tinh, 01 túi nilon màu trắng chứa 01 mảnh nilon màu xanh và 01 mảnh giấy bạc cả hai mặt đều có vết màu đen (bị đốt cháy) xét thấy các vật chứng đều không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ.

+ Đối với 01 chiếc điện thoại di động màu xanh nhãn hiệu Oppo thu giữ của Phan Đức Q(đã chết) không sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội trả lại cho vợ của Phan Đức Qlà chị Lê Thị H.

+ Đối với số tiền 158.000đ: Đối với 100.000đ do Vũ Bá A giao nộp là số tiền Phan Đức Qđưa cho Vũ Bá A đi mua ma tuý còn thừa lại do vậy cần tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước; Số tiền 58.000đ thu giữ trong túi quần của (Phan Đức Q) trả lại cho chị Lê Thị H vợ của Phan Đức Q(đã chết).

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h, o khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự, Tuyên bố bị cáo Vũ Bá A phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Vũ Bá A 15 (mười lăm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Vũ Bá A.

2. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 255, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 15 (mười lăm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/6/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ.

3. Về vật chứng, đồ vật, tài sản: Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

3.1. Tịch thu tiêu huỷ - 01 (Một) chiếc phong bì nguyên niêm phong. Mặt trước phong bì ghi: “Test thử ma túy của Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1981, trú tại Thôn C, xã H, huyện N, tỉnh H, thử ngày 05/4/2023”. Tại mép dán giáp lai của phong bì dán giấy niêm phong số 069209 của Công an tỉnh Sơn La, trên giấy niêm phong có ghi: “CƠ QUAN CSĐT CÔNG AN HUYỆN VÂN HỒ, TỈNH SƠN LA, Hồi 12 giờ 15 phút, ngày 05 tháng 4 năm 2023” và có chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, chữ ký của Nguyễn Văn Đ cùng một hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.

- 01 (Một) chiếc phong bì nguyên niêm phong. Mặt trước phong bì ghi: “Test thử ma túy của Vũ Bá A, sinh năm 1972, trú tại Thôn My Thữ, xã Vĩnh Hồng, huyện Bình Gi, tỉnh H, thử ngày 05/4/2023” Tại mép dán giáp lai của phong bì dán giấy niêm phong số 069208 của Công an tỉnh Sơn La. Trên giấy niêm phong có ghi: “CƠ QUAN CSĐT CÔNG AN HUYỆN VÂN HỒ, TỈNH SƠN LA, hồi 10 giờ 40 phút, ngày 05/04/2023” và có chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, chữ ký của Vũ Bá A cùng một hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.

- 01 (Một) chiếc phong bì nguyên niêm phong. Mặt trước phong bì ghi “Test thử ma túy của Giàng A Phương, sinh năm 2008, trú tại bản Pa Cốp, xã V, huyện V, tỉnh S, thu ngày 05/4/2023”. Tại mép dán giáp lai của phong bì dán giấy niêm phong số 069068 của Công an tỉnh Sơn La, trên giấy niêm phong có ghi: “CƠ QUAN CSĐT CÔNG AN HUYỆN VÂN HỒ, TỈNH SƠN LA, hồi 09 giờ 40 phút, ngày 05 tháng 4 năm 2023” và có chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, điểm chỉ ngón trỏ tay phải của Giàng A Phương cùng một hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT công an huyện Vân Hồ.

- 01 (Một) chiếc phong bì nguyên niêm phong. Mặt trước phong bì ghi: “Lọ thủy tỉnh có dòng chữ NOVOCAIN đựng chất lỏng”. Tại mép dán giáp lai của phong bì dán giấy niêm phong số 069064 của Công an tỉnh Sơn La, trên giấy niêm phong có ghi: “Cơ quan CSĐT Công an huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, Hồi 01 giờ 30 phút, ngày 05/4/2023” và có đầy đủ chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong, điểm chỉ ngón trỏ tay phải của Giàng A Ch cùng một hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT công an huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.

- 01 (Một) chiếc áo khoác màu xanh đã qua sử dụng.

- 01 (Một) chiếc mũ bảo hiểm màu đen nhãn hiệu INDEX, đã qua sử dụng.

- 01 (Một) chiếc giày da bên phải màu đen, đã qua sử dụng.

- 01 (Một) chiếc áo khoác màu đen đã qua sử dụng.

- 01 (Một) chiếc áo thun màu xám đã qua sử dụng.

- 01 (Một) chiếc phong bì số 2784/C09(TT3) do Viện khoa học hình sự -Bộ Công an phát hành nguyên niêm phong. Mặt trước phong bì có ghi: “Kính gửi Cơ quan CSĐT Công an huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La”. Tại các mép dán giáp lai của phong bì có hình dấu đỏ của Viện khoa học hình sự Bộ Công an và chữ ký, họ tên của Hà Văn Dũng, Đoàn Thị Lệ Hằng (bên trong phong bì niêm phong các mẫu giám định gồm: Mẫu 1: 01 túi nilon màu trắng chứa 01 (một) mảnh nilon màu xanh; Mẫu 2: 01 túi nilon màu trắng chứa 01 mảnh giấy bạc, 01 mũi kim tiêm và các mảnh thuỷ tinh; Mẫu 3: 01 túi nilon màu trắng chứa 01 mảnh nilon màu xanh và 01 mảnh giấy bạc cả hai mặt đều có vết màu đen (bị đốt cháy).

3.2. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước - Số tiền 100.000 đ (một trăm nghìn đồng) đựng trong 01 (Một) chiếc phong bì nguyên niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Tiền 158.000đ (Một trăm năm mươi tám nghìn đồng) thu giữ trong vụ án Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, xảy ra tại bản Pa Cốp, xã V, huyện V, tỉnh S, ngày 04/4/2023”. Mặt sau có dán 01 giấy niêm phong số 069319, trên giấy niêm phong ghi “Cơ quan CSĐT Công an huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La hồi 09 giờ 20 ngày 13/7/2023” và có chữ ký, họ tên của thành phần than gia niêm phong và 01 (một) hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.

3.3. Trả lại cho chị Lê Thị H - 01 (Một) chiếc điện thoại di động màu xanh, nhãn hiệu OPPO, loại cảm ứng, đã qua sử dụng. Tại thời điểm giao nhận không kiểm tra được thông số và tình trạng hoạt động của điện thoại do đã hết pin, không bật được nguồn.

- Số tiền 58.000 đ (năm mươi tám nghìn đồng) đựng trong 01 (Một) chiếc phong bì nguyên niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Tiền 158.000đ (Một trăm năm mươi tám nghìn đồng) thu giữ trong vụ án Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, xảy ra tại bản Pa Cốp, xã V, huyện V, tỉnh S, ngày 04/4/2023”. Mặt sau có dán 01 giấy niêm phong số 069319, trên giấy niêm phong ghi “Cơ quan CSĐT Công an huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La hồi 09 giờ 20 ngày 13/7/2023” và có chữ ký, họ tên của thành phần than gia niêm phong và 01 (một) hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/10/2023 của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Sơn La và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sơn La).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Buộc các bị cáo Vũ Bá A, Nguyễn Văn Đ mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 29 tháng 01 năm 2024) những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 66/2024/HS-ST

Số hiệu:66/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về