Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 62/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÁNH LINH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 62/2023/HS-ST NGÀY 25/09/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 45/2023/TLST-HS, ngày 18 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2023/QĐXXST-HS, ngày 13 tháng 9 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Trần Lê Anh N, sinh năm 1993 tại B; nơi cư trú: Thôn B, xã B, huyện T, tỉnh B; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thanh K, sinh năm 1954 và bà Lê Thị L, sinh năm 1958; vợ: Nguyễn Thị Lệ M, sinh năm 1998; con có 01 người sinh năm 2021; tiền án; tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/5/2023 tại nhà tạm giữ Công an huyện T cho đến nay: Có mặt.

2. Họ và tên: Nguyễn Hồng T, sinh năm 1993 tại B; nơi cư trú: Thôn B, xã B, huyện T, tỉnh B; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1965 và con bà Phùng Thị L1, sinh năm 1969; vợ con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không.

Quá trình nhân thân:

Tại bản án số: 07/2013/HSST, ngày 28/01/2013 Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tại bản án số: 81/2014/HSST, ngày 22/12/2014 Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 26/5/2023 tại nhà tạm giữ Công an huyện T cho đến nay: Có mặt.

3. Họ và tên: Nguyễn Hoàng L2, sinh năm 1994 tại B; nơi cư trú: Thôn H , xã M, huyện T, tỉnh B; nghề nghiệp: Thợ sơn nước; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1972 và con bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1970; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/5/2023 tại nhà tạm giữ Công an huyện T cho đến nay: Có mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Nguyễn Hồng Q, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn B, xã B, huyện T, tỉnh B: Vắng mặt.

- Lê Xuân P, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn B, xã B, huyện T, tỉnh B: Vắng mặt.

- Lê Thành L3, sinh năm 2001; địa chỉ: Thôn H, xã M, huyện T, tỉnh B: Vắng mặt.

- Phan Ngọc D, sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn B, xã B, huyện T, tỉnh B: Vắng mặt.

- Nguyễn Công C, sinh năm 1980; địa chỉ: Thôn D, xã H, huyện T, tỉnh B: Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 22/3/2023 Nguyễn Hồng T, Trần Lê Anh N, Nguyễn Hoàng L2 hẹn nhau tại quán Chất ở thôn B, xã M để uống cà phê. Tại đây, Trần Lê Anh N nói với T và L2 “Anh em có tiền không góp lấy cái chơi” tức là N rủ T và L2 góp tiền mua ma túy về sử dụng thì cả hai đồng ý. T nói “Tao còn 150.000đ” rồi lấy tiền ra đưa cho N. L2 nói “Tao còn 100.000đ nên lấy tiền đưa cho N. N lấy ra góp 50.000đ. Tổng cộng 300.000đ rồi đưa cho T cất giữ. Sau khi góp tiền xong thì N gọi điện thoại cho Lê Xuân P rủ đến uống cà phê. Nguyễn Hoàng L2 thì điều khiển xe chạy đi mua 01 thùng bia giúp cho Nguyễn Công C.

Trong lúc N và T đang ngồi ở quán đợi Lê Xuân P đến, nhưng do thấy lâu nên T rủ N đi đến nhà Lê Thành L3 ở thôn H, xã M, huyện T để sử dụng ma túy rồi cả hai điều khiển xe chở nhau đi, vừa đến nơi Lê Xuân P gọi cho N hỏi đường nên N điều khiển xe ra đón P vào nhà L3 rồi đưa xe cho T để đi mua ma túy. Nguyễn Hồng T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S biển kiểm soát 86L1-xxxx của N đi một mình đến thôn B, xã B gặp một người thanh niên tên Dũng V mua 01 tép ma túy đá với giá 300.000đ và xin D 01 cái “Nỏ” bằng thủy tinh để sử dụng ma túy rồi về lại nhà Lê Thành L3. Trên đường quay về thì Nguyễn Hồng Q gọi điện thoại cho T nên T nói Q đến nhà Lê Thành L3. Sau khi mua bia cho C, do C say nên Nguyễn Hoàng L2 chở theo C đến nhà Lê Thành L3 để cho C nằm ngủ.

Lúc này, Nguyễn Hồng T đi mua ma túy về đến nhà Lê Thành L3 thì đi vào trong nhà đưa 01 tép ma túy và 01 cái “Nỏ” cho Nguyễn Hoàng L2 rồi nói L2 lấy 01 chai nước ngọt nhãn hiệu Sting mở nắp ra dùng kéo đục 02 lỗ trên nắp chai (01 lỗ để gắn “Nỏ”, 01 lỗ gắn 01 đoạn ống nhựa), L2 lấy nước đổ vào chai, gắn nắp chai lại rồi lấy ma túy bỏ vào nỏ đốt ma túy lên đưa cho Trần Lê Anh N hút trước. Nguyễn Hồng T, Nguyễn Hoàng L2, Nguyễn Hồng Q. Lê Xuân P ngồi thành vòng tròn dưới nền nhà thay phiên nhau tự đốt ma túy để sử dụng. Riêng Lê Thành L3 nằm trên võng bấm điện thoại, C nằm ngủ nên cả hai không tham gia sử dụng ma túy.

Đến khoảng 15 giờ 30 cùng ngày, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, Công an xã M tổ chức lực lượng đến nhà Lê Thành L3 phát hiện có Lê Thành L3, Nguyễn Hồng T. Nguyễn Hoàng L2, Trần Lê Anh N, Lê Xuân P, Nguyễn Hồng Q. Khi kiểm tra tại vị trí đang ngồi dưới nền nhà phát hiện có 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy nên đã lập biên bản thu giữ, niêm phong tang vật.

Tại bản cáo trạng số: 48/CT-VKSND-TL, ngày 17/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh B truy tố bị cáo Trần Lê Anh N, Nguyễn Hồng T, Nguyễn Hoàng L2 về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T khẳng định bản cáo trạng truy tố đối với bị cáo Trần Lê Anh N, Nguyễn Hồng T, Nguyễn Hoàng L2 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Đề nghị xem xét áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt Trần Lê Anh N: Từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng L2: Từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng T: Từ 08 năm đến 09 năm tù.

Về vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xem xét:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 nắp nhựa màu đỏ kích thước (2,7x0,9) cm, có đục hai lỗ, một lỗ gắn ống nhựa màu vàng kích thước (11x0,5)cm, một lỗ gắn ống thủy tinh không màu kích thước (12,5x0,5)cm; nhiều mảnh thủy tinh không màu, không rõ hình dạng, kích thước khác nhau; 01 gói giấy màu trắng không rõ hình dạng, kích thước (07x08)cm bên trong có 02 đoạn ống nhựa màu vàng kích thước lần lượt là (2,3x2) cm và (0,5x0,4) cm được niêm phong trong phong bì có dán giấy NIÊM PHONG MẪU SAU GIÁM ĐỊNH số 339 có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Hồng T2 và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh B (trong quá trình giám định mẫu M đã sử dụng hết).

- 01 chai nhựa nhãn hiệu Sting, 02 bật lửa (01 cái màu xanh đã bị hỏng, 01 cái màu tím có chữ PHONG NHAT).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên và Kiểm sát viên. Cho nên, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên là phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về thủ tục t tụng: Tại phiên tòa vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Hồng Q, Lê Xuân P, Phan Ngọc D không có lý do. Lê Thành L3 vắng mặt, nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Tại phiên tòa, bị cáo và đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xét xử vắng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xét thấy: Trong quá trình điều tra đã tiến hành lấy lời khai đầy đủ của Nguyễn Hồng Q. Lê Xuân P, Phan Ngọc D, Lê Thành L3. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt Nguyễn Hồng Q, Lê Xuân P, Phan Ngọc D là phù hợp với quy định tại Điều 292 BLTTHS.

[3] Về hành vi vi phạm của các bị cáo:

Vào khoảng 15 giờ 30, ngày 22/3/2023 Trần Lê Anh N rủ Nguyễn Hồng T, Nguyễn Hoàng L2 cùng góp tiền mua ma túy về sử dụng. Lúc này, Trần Lê Anh N góp 50.000đ, Nguyễn Hồng T góp 150.000đ. Nguyễn Hoàng L2 góp vào 100.000đ. Nguyễn Hoàng L2 sử dụng số tiền 300.000đ đi xuống nhà người tên D Vịt mua 300.000đ ma túy. Sau đó, Trần Lê Anh N, Nguyễn Hồng T, Nguyễn Hoàng L2 cùng Lê Xuân P1, Nguyễn Hồng Q sử dụng trái phép chất ma túy tại nhà Lê Thành L3 ở Thôn H, xã M, huyện T.

Như vậy, các bị cáo Trần Lê Anh N, Nguyễn Hoàng L2, Nguyễn Hồng T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Thế nhưng, bị cáo Trần Lê Anh N, Nguyễn Hoàng L2, Nguyễn Hồng T đã có hành vi cùng góp tiền để Nguyễn Hồng T đi mua ma túy về cùng nhau sử dụng tại nhà Lê Thành L3. Hành vi của các bị cáo Trần Lê Anh N, Nguyễn Hoàng L2, Nguyễn Hồng T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với 02 người trở lên quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo Trần Lê Anh N, Nguyễn Hoàng L2, Nguyễn Hồng T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Riêng bị cáo Trần Lê Anh N có cha Trần Thanh K là người có công với cách mạng, được tặng huân chương kháng chiến hạng nhất nên được xem xét áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

Xét thấy: Hành vi của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu tình hình an ninh, trật tự tại địa phương; gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy cần xử phạt các bị cáo nghiêm minh theo quy định của pháp luật; cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội để giáo dục đối với bị cáo cũng để răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Về vai trò của các bị cáo trong vụ án:

Xét thấy:

- Bị cáo Nguyễn Hồng T có quá trình nhân thân xấu; đã từng nhiều lần bị xử phạt tù, nhưng sau khi chấp hành án xong bị cáo không cải tạo, giáo dục mình trở thành người công dân tốt mà vào ngày 22/3/2023 bị cáo là người đóng góp tiền nhiều nhất trong số các bị cáo Trần Lê Anh N, Nguyễn Hoàng L2 để mua ma túy về sử dụng. Bị cáo là người lựa chọn địa điểm nhà của Lê Thành L3 để tổ chức sử dụng ma túy. Do đó, cần xử phạt bị cáo với mức án cao nhất.

- Đối với bị cáo Trần Lê Anh N là người khởi xướng, rủ rê Nguyễn Hồng T, Nguyễn Hoàng L2 sử dụng ma túy. Tuy nhiên, do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ hơn so với các bị cáo Nguyễn Hoàng L2, Nguyễn Hồng T. Cho nên, cần xử phạt bị cáo với mức án ngang bằng với bị cáo Nguyễn Hoàng L2 là phù hợp.

[6] Về vật chứng trong vụ án: Hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T gồm: 01 nắp nhựa màu đỏ kích thước (2,7x0,9) cm, có đục hai lỗ, một lỗ gắn ống nhựa màu vàng kích thước (11x0,5)cm, một lỗ gắn ống thủy tinh không màu kích thước (12,5x0,5)cm; nhiều mảnh thủy tinh không màu, không rõ hình dạng, kích thước khác nhau; 01 gói giấy màu trắng không rõ hình dạng, kích thước (07x08)cm bên trong có 02 đoạn ống nhựa màu vàng kích thước lần lượt là (2,3x2) cm và (0,5x0,4) cm được niêm phong trong phong bì có dán giấy NIÊM PHONG MẪU SAU GIÁM ĐỊNH số 339 có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Hồng T2 và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh B (trong quá trình giám định mẫu M đã sử dụng hết).

- 01 chai nhựa nhãn hiệu Sting, 02 bật lửa (01 cái màu xanh đã bị hỏng, 01 cái màu tím có chữ PHONG NHAT).

Xét thấy: Đây là những vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu và tiêu hủy là phù hợp với quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

[7] Về án phí: Cần buộc bị cáo Trần Lê Anh N, Nguyễn Hoàng L2, Nguyễn Hồng T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đối với Phan Ngọc D: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có đủ căn cứ xác định vào ngày 22/3/2023 Phan Ngọc D là người bán cho Nguyễn Hoàng L2 ma túy. Cho nên, không đủ căn cứ xác định Phan Ngọc D có hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”. Cho nên, Hội đồng xét xử không xét đến.

Đối với Lê Thành L3: Mặc dù, vào ngày 22/3/2023 các bị cáo sử dụng nhà của Lê Thành L3 là nơi sử dụng ma túy. Thế nhưng, Lê Thành L3 không phải là người rủ các bị cáo đến nhà sử dụng ma túy. Lê Thành L3 cũng không trực tiếp sử dụng ma túy cùng các bị cáo. Khi các bị cáo đến nhà Lê Thành L3 sử dụng ma túy thì bản thân Lê Thành L3 lo sợ bị đánh nên không dám ngăn cản. Cho nên, hành vi của Lê Thành L3 không đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Cho nên, Hội đồng xét xử không xét đến.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Về ti danh:

Căn cứ vào: Điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố: Bị cáo Trần Lê Anh N, Nguyễn Hồng T, Nguyễn Hoàng L2 phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt:

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51. Bị cáo Trần Lê Anh N áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 BLHS (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

- Xử phạt Nguyễn Hồng T: 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 26/5/2023.

- Xử phạt Trần Lê Anh N: 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 23/5/2023.

- Xử phạt Nguyễn Hoàng L2: 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 23/5/2023

Về vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 nắp nhựa màu đỏ kích thước (2,7x0,9) cm, có đục hai lỗ, một lỗ gắn ống nhựa màu vàng kích thước (11x0,5)cm, một lỗ gắn ống thủy tinh không màu kích thước (12,5x0,5)cm; nhiều mảnh thủy tinh không màu, không rõ hình dạng, kích thước khác nhau; 01 gói giấy màu trắng không rõ hình dạng, kích thước (07x08)cm bên trong có 02 đoạn ống nhựa màu vàng kích thước lần lượt là (2,3x2) cm và (0,5x0,4) cm được niêm phong trong phong bì có dán giấy NIÊM PHONG MẪU SAU GIÁM ĐỊNH số 339 có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Hồng T2 và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh B (trong quá trình giám định mẫu M đã sử dụng hết).

- 01 chai nhựa nhãn hiệu Sting, 02 bật lửa (01 cái màu xanh đã bị hỏng, 01 cái màu tím có chữ PHONG NHAT).

(Tất cả những vật chứng trên hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 23/8/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T).

Về án phí:

Căn cứ vào: Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Trần Lê Anh N, Nguyễn Hồng T, Nguyễn Hoàng L2 mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, sung công quỹ Nhà nước.

Về quyền kháng cáo:

Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (25/9/2023). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết (đã giải thích quyền kháng cáo).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

61
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 62/2023/HS-ST

Số hiệu:62/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tánh Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về