Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 59/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 59/2021/HS-PT NGÀY 15/09/2021 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 66/2021/TLPT-HS ngày 22 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo Trương Minh S và đồng phạm do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên đối với bị cáo Trương Minh S và kháng cáo của các bị cáo Lê Văn Th, Nguyên Quốc H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 09/2021/HS-ST ngày 17/06/2021 của Tòa án nhân dân huyện Sông H, tỉnh Phú Yên.

- Bị cáo bị kháng nghị:

1. Trương Minh S, sinh năm 2000; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Buôn D, xã E, huyện Sông H, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Vinh Q, sinh năm 1971 và bà Võ Thị Thu Q, sinh năm 1980; tiền sự, tiền sự: Không; tạm giam ngày 09/11/2020; có mặt.

- Bị cáo có kháng cáo:

2. Lê Văn Th, sinh năm 1997; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Khu phố 1, thị trấn H, huyện Sông H, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H (chết) và bà Đoàn Thị Kim A, sinh năm: 1966; tiền sự, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; vàng mặt.

3. Nguyễn Quốc H, sinh năm 2000; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Khu phố 1, thị trấn H, huyện Sông H, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Công T, sinh năm 1977 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1977; tiền sự, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 05 giờ 30 phút, ngày 09/11/2020, tại phòng 110 khách sạn H ở khu phố 6, thị trấn H, Sông H, tỉnh Phú Yên; Trương Minh S, Nguyễn Quốc H, Lê Văn Th, Phùng Nhật Q đang sử dụng ma túy thì bị bắt quả tang thu giữ trong túi da của S 01 bao thuốc lá hiệu COTAP có 02 túi ni long nhỏ đựng 03 viên nén màu vàng và 04 túi ni long nhỏ đựng tinh thể màu trắng nghi ma túy.

Qua điều tra xác định: Tối ngày 08/11/2020, trong lúc hát Karaoke tại quán HX. Trương Minh S nói mình có ma túy nên rủ Nguyễn Quốc H, Lê Văn Th, Phùng Nhật Q được cả nhóm thống nhất đến khách sạn H để cùng sử dụng, S nói H đến nhà Trần Văn S mượn 01 loa nhạc; S nói Th đi cùng S đến quán QC ở buôn L, thị trấn H để S mượn 01 cái đèn led và 01 đĩa sứ, rồi cả nhóm cùng đến khách sạn H sử dụng ma túy. Khoảng 00 giờ ngày 09/11/2020, Th gặp lễ tân thuê phòng 110 rồi cùng S, H, Q vào trong phòng, Th bật đèn led, mở loa nhạc, S lấy 01 viên Methamphetamine và MDMA ra cùng với H nghiền nát, pha vào chai nước Rivive đưa cho Th uống, Th uống xong đưa cho S, H, Q cùng uống, rồi cả nhóm lắc lư theo tiếng nhạc. Thấy chưa phê thuốc, S lấy thêm một gói Ketamine bỏ vào đĩa sứ, dùng bật lửa đốt nóng, số ma túy chưa sử dụng S cất vào túi xách để trên giường, S dùng tờ tiền Polime mệnh giá 20.000 đồng cuốn lại để làm ống hít, rồi cùng Th, H, Q thay nhau hít hết số Ketamine trong dĩa, sau đó S, H, Th, Q phê thuốc cùng lắc lư theo tiếng nhạc rồi đi ngủ. Ngoài ra, Trương Minh S còn khai nhận trước đó cùng Th, H đã sử dụng ma túy tại quá Karaoke HV ở khu phố 4, thị trấn H, huyện Sông H, tỉnh Phú Yên.

Kết luận giám định số 232/GĐ-PC09 ngày 11/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Yên kết luận: Túi nilông đựng 01 viên nén màu vàng ký hiệu AI có khối lượng 0,336g là ma tuý có Methamphetamine và MDMA; Túi nilông đựng 02 viên nén màu vàng ký hiệu A2 có khối lượng 0,672g là ma tuý có Methamphetamine và MDMA và 04 túi nilông tinh thể màu trắng gồm: ký hiệu A3 có khối lượng 0,298g là ma tuý loại Ketamine; ký hiệu A4 có khối lượng 0,298g Ketamine; A5 có khối lượng 0,309g Ketamine; A6 có khối lượng 0,310g Ketamine.

Tại các biên bản xét nghiệm chất ma tuý ngày 09/11/2020 kết quả xét nghiệm các đối tượng Trương Minh S, Nguyễn Quốc H, Lê Văn Th, Phùng Nhật Q đều dương tính với ma tuý.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 09/2021/HS-ST ngày 17/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Sông H đã tuyên Trương Minh S, Nguyễn Quốc H, Lê Văn Th phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Áp dụng Điểm b, Khoản 2 Điều 255; Điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự; thêm Khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Th, H; phạt: Bị cáo Trương Minh S - 07 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/11/2020; Lê Văn Th, Nguyễn Quốc H mỗi bị cáo - 04 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt các bị cáo thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Đối với Phùng Nhật Q bị rủ rê sử dụng trái phép chất ma túy, không có vai trò đồng phạm trong vụ án, nên đã bị Công an huyện Sông H xử phạt hành chính 750.000 đồng.

Ngày 01/7/2021, các bị cáo Lê Văn Th, Nguyễn Quốc H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 09/7/2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên có quyết định kháng nghị số 945/QĐ-VKS-P7 theo hướng hủy một phần bản án hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Trương Minh S để điều tra lại.

Tại phiên tòa, các bị cáo Trương Minh S, Nguyễn Quốc H vẫn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm đã tuyên. Đối với bị cáo Lê Văn Th vắng mặt, nên sau khi tóm tắt nội dung vụ án, quyết định bản án sơ thẩm, tiến hành xét hỏi các bị cáo Trương Minh S, Nguyễn Quốc H. Hội đồng xét xử đã công bố nội dung đơn kháng cáo của bị cáo Lê Văn Th, đơn xin hoãn phiên tòa; công bố lời khai của bị cáo Lê Văn Th, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng.

Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điểm c, Khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự, xét xử vắng mặt bị cáo Lê Văn Th; căn cứ Điều 342; 348 Bộ luật tố Tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Nguyễn Quốc H; căn cứ Điều 356 Bộ luật tố Tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo - Giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Lê Văn Th; căn cứ Điểm a, Khoản 1 Điều 358 Bộ luật tố Tụng hình sự, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên - Hủy một phần Bản án hình sự sơ thẩm số: 09/2021/HS-ST ngày 17/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Sông H đối với bị cáo Trương Minh S, để điều tra lại.

Các bị cáo Trương Minh S, Nguyễn Quốc H không tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Đối với bị cáo Lê Văn Th: Sau khi nhận được Quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử phúc thẩm, đến ngày mở phiên tòa 15/9/2021 bị cáo có đơn xin hoãn phiên tòa cho đến khi hết giãn cách xã hội trên đại bàn tỉnh Phú Yên và nêu lý do bị sốt, nhưng không có tài liệu gì chứng minh cho lý do xin hoãn phiên tòa của bị cáo. Xét sự vắng mặt của bị cáo Lê Văn Th không gây trở ngại cho việc xét xử, nên Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của Kiểm sát viên tiến hành xét xử vụ án theo Điểm c, Khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[1.2] Đối với bị cáo Nguyễn Quốc H: Tại phiên tòa, bị cáo tự nguyện rút toàn bộ kháng cáo; việc rút toàn bộ kháng cáo của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện, không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị của các bị cáo khác; nên Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử, đình chỉ xét xử phúc thẩm toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quốc H theo Điều 342; Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự là có cơ sở chấp nhận.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Lê Văn Th và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên đối với bị cáo Trương Minh S. Hội đồng xét xử, thấy: Sau khi thống nhất chọn địa điểm, phân công nhau đi mượn loa nhạc, đèn led, đĩa sứ, thuê phòng khách sạn, nhằm sử dụng để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể của người khác. Khoảng 00 giờ ngày 09/11/2020, tại phòng 110 khách sạn HM, thuộc khu phố 6, thị trấn H, huyên Sông H, tỉnh Phú Yên; Trương Minh S lấy 01 viên Methamphetamine va MDMA và 01 gói Ketamine cùng Nguyễn Quốc H, Lê Văn Th, Phùng Nhật Q sử dụng, đến 05 giờ cùng ngay thì bị bắt quả tang; nên cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử các bị cáo Trương Minh S, Nguyễn Quốc H, Lê Văn Th về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điểm b, Khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.

[3] Hành vi của các bị cáo không chỉ làm cho tệ nạn ma túy ngày càng gia tăng, mà tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương ngày càng phức tạp, mất ổn định, nên cần xử lý nghiêm.

[3.1] Ngoài bị cáo Nguyễn Quốc H trực tiếp đi mượn loa nhạc, nghiền ma túy, đồ vào chai nước để cùng sử dụng; bị cáo Lê Văn Th trực tiếp thuê phòng, mượn đèn nháy, đĩa sứ, mở loa nhạc để phục vụ cho việc sử dụng ma túy; bị cáo tham gia phạm tội với vai trò giúp sức, tính chất, mức độ nguy hiểm; nên khi lượng hình án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án, áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng, để phạt bị cáo 04 năm tù là đã có cân nhắc trong quyết định hình phạt, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo bị cáo, mà chấp nhận ý kiến của Kiểm sát viên - Giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Lê Văn Th để có đủ thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo.

[3.2] Bị cáo Trương Minh S là người trực tiếp mua ma túy và cất giấu, sau đó rủ rê, cung cấp ma túy để cùng Nguyễn Quốc H, Lê Văn Th, Phùng Nhật Q sử dụng; theo S khai, ý định cho các bị cáo và Phùng Nhật Q sử dụng hết số ma túy đó, không ấn định số lần, số lượng sử dụng; các bị cáo còn lại và Phùng Nhật Q khai không bàn bạc số lần, số lượng sử dụng, mà sử dụng ớn thì thôi. Sau khi sử dụng xong, số ma túy còn lại 1,008g Methamphetamine và MDMA và 1,22g Ketamine, S bỏ vào bao thuốc lá hiệu COTAP và cất giấu trong túi da của mình. Do đó, ngoài hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, bị cáo S còn có dấu hiệu phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 Bộ luật Hình sự, cấp sơ thẩm không truy cứu trách nhiệm hành vi này là bỏ lọt tội phạm.

[4] Hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của Trương Minh S độc lập, không ảnh hưởng đến hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” với các bị cáo Nguyễn Quốc H, Lê Văn Th. Nên Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử hủy một phần bản án đối với bị cáo Trương Minh S để điều tra lại, là có căn cứ chấp nhận.

[5] Bị cáo Trương Minh S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; các bị cáo Lê Văn Th, Nguyễn Quốc H kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo hoặc kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 342; Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự;

1.1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quốc H. Bản án sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Quốc H có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm.

1.2. Bị cáo Nguyễn Quốc H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

2. Căn cứ Điểm c, Khoản 1 Điều 351; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn Th - Giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Lê Văn Th.

2.1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn Th phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”;

2.2. Áp dụng Điểm b, Khoản 2 Điều 255; Điểm s, Khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự; phạt: Bị cáo Lê Văn Th - 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2.3. Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức, thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Bị cáo Lê Văn Th phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

3. Căn cứ Điểm a, Khoản 1 Điều 358 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên đối với bị cáo Trương Minh S.

3.1. Hủy một phần Bản án hình sự sơ thẩm số: 09/2021/HS-ST ngày 17/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Sông H đối với bị cáo Trương Minh S, để điều tra Ịai.

3.2. Giao hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông H, tỉnh Phú Yên giải quyết thuộc thẩm quyền.

3.3. Bị cáo Trương Minh S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

448
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 59/2021/HS-PT

Số hiệu:59/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về