Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 57/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 57/2024/HS-ST NGÀY 11/03/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45/2024/TLST-HS, ngày 07 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2024/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 02 năm 2024, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: VÕ HOÀI N, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 02/8/200x Nơi cư trú: Tổ 0x, phường Chùa H, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; con ông: Võ Đức Ng (đã chết), con bà: Vũ Thị Ng, sinh năm 197x; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, Tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0050405/QĐ-XPVPHC ngày 17/6/2020 của Công an thành phố Thái Nguyên, xử phạt Võ Hoài N số tiền 750.000 đồng về hành vi “Đánh nhau” (đã nộp phạt xong ngày 06/7/2020).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/8/2023, tạm giam từ ngày 03/9/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt).

2. Họ và tên: TRỊNH CÔNG G, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 28/8/199x Nơi cư trú: Tổ dân phố Đ, phường Đồng B, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; con ông: Trịnh Văn S, sinh năm 196x; con bà: Đặng Kim T, sinh năm 197x; Vợ là Mạch Thị Thu Ng, sinh năm 200x và có 01 con, sinh năm 202x; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/12/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Đỗ Gia Q, sinh năm 198x (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ 0x, phường Thịnh Đ, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên

2. Anh Nguyễn Đức V, sinh năm 200x (có mặt) Nơi cưtrú: Tổ dân phố Đ, phường Đồng B, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên

- Người chứng kiến: Anh Bùi Anh T, sinh năm 198x (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ 0x, phường Đồng Q, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 05 giờ 05 phút ngày 24/8/2023, Công an phường Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại tổ 12, phường Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên xảy ra va chạm giao thông, nên đã đến tiến hành xác minh. Tại đây phát hiện 01 xe ô tô biển kiểm soát 20A-452.xx đang mở máy bật đèn, trong xe bật nhạc, có 03 nam giới đang ngồi trong xe và đầu xe hướng về phía đảo tròn Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên, đầu xe phía trước bên trái bị vỡ nát. Tổ công tác nghi vấn bên trong xe có 03 nam giới liên quan đến ma túy nên đã tiến hành kiểm tra. Người ngồi tại vị trí ghế lái tự khai tên là Võ Hoài N, người ngồi ghế bên phụ phía trước tự khai tên là Nguyễn Đức V (sinh năm: 200x, trú tại: Tổ dân phố Đ, phường Đồng B, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên), người còn lại ngồi phía sau bên phụ tự khai tên là Trịnh Công G. Tiến hành kiểm tra phương tiện xe ô tô biển kiểm soát 20A-452.xx phát hiện thu giữ tại vị trí ghế lái 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (niêm phong ký hiệu A1); 01 miếng giấy ăn màu trắng, bên trong có chứa 01 mảnh viên nén màu xám tại vị trí hộp để kính trên trần xe (niêm phong ký hiệu A3); thu giữ tại vị trí gần cần số 01 ống hút cuốn bằng tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng; 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng; 01 bật lửa ga. Ngoài ra còn tạm giữ 01 xe ô tô biển kiểm soát 20A-452.xx của Nam, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu đen của Võ Hoài N (niêm phong ký hiệu B1), 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone của Trịnh Công G(niêm phong ký hiệu B2) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone của Nguyễn Đức V(niêm phong ký hiệu B3) theo quy định.

Tiến hành xét nghiệm xác định tình trạng sử dụng chất ma túy: Võ Hoài N, Trịnh Công Gi, Nguyễn Đức V dương tính với Ketamine, MDMA và Methamphetamine.

Hồi 18 giờ 20 phút, ngày 24/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên phối hợp với Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng, xác định: Số chất tinh thể màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu A1 có khối lượng 0,769 gam (niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định), mảnh viên nén màu xám trong bì niêm phong ký hiệu A3 có khối lượng 0,231 gam (niêm phong ký hiệu A3 gửi giám định).

Tại bản Kết luận giám định số 1066/KL-KTHS ngày 02/09/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine, có khối lượng là: 0,769 gam; Mẫu mảnh viên nén màu xám trong bì niêm phong ký hiệu A3 gửi giám định là chất ma túy, loại MDMA, có khối lượng là: 0,231 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Võ Hoài N, Trịnh Công G khai nhận: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 23/8/2023, Võ Hoài N rủ Trịnh Công G và Nguyễn Đức V cùng đi xuống thành phố Hà Nội chơi. Sau đó, N điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 20A-452.xx chở V, G đến khu vực quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội đón bạn tên là Đ (hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch) rồi cùng đi ăn đêm. Khi chuẩn bị về, Đ đưa N ma túy tổng hợp Ketamine và MDMA đựng trong bao thuốc lá Thăng Long và nói ma túy đã xào sẵn chỉ cần đổ ra là sử dụng được. N cầm số ma túy tổng hợp Ketamine và MDMA trên lên xe để tại hộp số xe ô tô. Khoảng 02 giờ ngày 24/8/2023, N điều khiển xe ô tô chở G, V về Thái Nguyên. Trên đường đi, N mở bao thuốc lá ra xem thì thấy trong bao thuốc có 01 túi nilon màu trắng, bên trong có ma túy Ketamine đã xào sẵn và 02 viên ma túy MDMA màu xám. Nam rủ G, V cùng sử dụng thì G và V đồng ý. N điều khiển xe ô tô đi tiếp đến trạm dừng nghỉ Hải Đăng thuộc tổ dân phố Trại, phường Tân Phú, thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên thì dừng xe. Tại đây, N lấy 01 viên ma túy MDMA bẻ làm 02 mảnh, N nuốt 1 mảnh, mảnh còn lại gói vào giấy vệ sinh màu trắng và để vào hộp để kính trên trần xe. Một viên còn lại N bẻ làm hai mảnh rồi để ở ngăn để đồ gần cần số của xe rồi G và V mỗi người sử dụng một nửa viên ma túy MDMA mà N bẻ bằng hình thức nuốt. Một lúc sau, N lấy túi ma túy Ketamine đổ 1 phần lên tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng và 01 ống hút cuốn bằng tờ tiền 10.000 đồng đưa cho G sử dụng. G sử dụng một phần bằng hình thức hít xong thì đưa ma túy Ketamine và ống hút cho V sử dụng. V sử dụng một phần bằng hình thức hít xong thì trả lại ma túy và ống hút cho Nam. Sau khi được V trả lại, N sử dụng hết số ma túy Ketamine còn lại rồi cất tờ tiền 10.000 đồng và 1.000 đồng tại hộp số xe và điều khiển xe về thành phố Thái Nguyên. Khoảng 5 giờ, cùng ngày khi đi đến đoạn đường Quang Trung, thuộc tổ 12, phường Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên, xe của Nam điều khiển va chạm với 01 xe ô tô khác và cơ quan công an đến kiểm tra phát hiện và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Lời khai nhận của Võ Hoài N và Trịnh Công G phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ như: vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của những người tham gia tố tụng khác. Do vậy, Tại bản cáo trạng số 48/CT-VKSTPTN, ngày 05/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Võ Hoài N về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Trịnh Công G về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 255 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, sau khi kết thúc phần thẩm vấn công khai, Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên thực hành quyền công tố tại phiên tòa trình bày bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản cáo trạng số 48/CT- VKSTPTN, ngày 05/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố: Bị cáo Võ Hoài N phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo Trịnh Công G phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1 Áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Võ Hoài N mức án từ 18 đến 21 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và từ 07 đến 08 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Võ Hoài N phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 08 năm 06 tháng đến 09 năm 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/8/2023.

2.2. Áp dụng: Khoản 1 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trịnh Công G từ 24 đến 30 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/12/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu A1 bên trong chứa 0,643 gam mẫu vật còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A1; 01 (một) bì niêm phong ký hiệu A3 bên trong chứa 0,101 gam mẫu vật còn lại sau giám định và vỏ bao mẫu A3; 01 (một) bì niêm phong ký hiệu A2 bên trong chứa vỏ bao mẫu vật niêm phong ban đầu; 01 bật lửa ga đã qua sử dụng và 03 (ba) chai nhựa niêm phong ký hiệu N1, N2, N3.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng (trong phong bì niêm phong ký hiệu A4).

- Tiếp tục tạm giữ của bị cáo Võ Hoài N 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu IPHONE, số IMEI: 353154103247373 (trong phong bì niêm phong ký hiệu B1) và của bị cáo Trịnh Công G01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu IPHONE, số IMEI: 355737077960647 (trong phong bì niêm phong ký hiệu B2) để đảm bảo công tác thi hành án.

- Trả lại cho Anh Nguyễn Đức V 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu IPHONE, số IMEI: 355769070901807 (trong phong bì niêm phong ký hiệu B3).

Ngoài ra còn đề nghị về phần án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa: Các bị cáo Võ Hoài N và Trịnh Công G đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, thừa nhận việc truy tố, xét xử các bị cáo với tội danh và điều luật đã viện dẫn là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; các bị cáo không tranh luận gì với quan điểm đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát. Nói lời sau cùng, các bị cáo đều đề nghị HĐXX xem xét cho được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với gia đình, hòa nhập cộng đồng và thành người có ích cho xã hội.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:

- Anh Nguyễn Đức V trình bày: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 23/8/2023, khi anh V đang ở nhà mình tại tổ dân phố Đ, phường Đồng B, thành phố Thái Nguyên thì được Võ Hoài N gọi điện rủ đi xuống thành phố Hà Nội có việc. Sau đó, N điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 20A-452.xx đến đón và chở V cùng với Trịnh Công G đến khu vực quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội gặp một người bạn của N tên là Đ (V không quen biết) rồi cùng đi ăn đêm. Đến khoảng 02 giờ ngày 24/8/2023, N điều khiển xe ô tô chở G, V về Thái Nguyên. Khi đi đến trạm dừng nghỉ Hải Đăng thuộc địa phận thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên thì Nam rủ V và G cùng sử dụng ma túy, nên V đồng ý. Sau đó N lấy 01 viên ma túy dạng “kẹo” bẻ làm 02 mảnh và để tại vị trí cần số để V và G sử dụng, sau đó V đã lấy 01 mảnh ma túy Nam vừa bẻ cho vào miệng sử dụng bằng hình thức nuốt. Một lúc sau, N lấy túi ma túy dạng “Ke” đổ 1 phần lên tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng và 01 ống hút cuốn bằng tờ tiền 10.000 đồng (do Nam đã chuẩn bị từ trước) đưa cho G sử dụng. G sử dụng một phần bằng hình thức hít xong rồi đưa ma túy và ống hút cho V sử dụng. V sử dụng một phần bằng hình thức hít xong thì trả lại tờ tiền chứa ma túy dạng “Ke” và ống hút cho N. Khi về đến đoạn đường Quang Trung, thuộc tổ 12, phường Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên thì xẩy ra vụ tại nạn giao thông, nên công an phường Đồng Quang đến kiểm tra phát hiện và thu giữ vật chứng như nêu trên. Tại phiên tòa Nguyễn Đức V khẳng định V và G không được biết và bàn bạc gì với Nam về việc nhận ma túy từ Đoàn, không tham gia vào việc chuẩn bị công cụ để sử dụng ma túy và không được hưởng lợi hoặc có quyền gì đối với số ma túy còn lại trên xe. Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE, màu bạc do công an thu giữ, V không sử dụng vào việc gì liên quan đến việc sử dụng ma túy, do vậy đề nghị HĐXX xem xét trả lại cho V chiếc điện thoại trên.

- Anh Đỗ Gia Q trình bày: Khoảng đầu tháng 8/2023 anh Q có cho Võ Hoài N mượn chiếc xe ô tô nhãn hiệu Vinfast, số loại: LUC A2.0, biển kiểm soát 20A-452.xx để N làm phương tiện đi lại. Ngày 24/8/2023 Võ Hoài N điều khiển xe ô tô gây ra vụ tai nạn giao thông tại tổ 12, phường Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên và bị cơ quan công an kiểm tra phát hiện thấy có ma túy trên xe ô tô. Nay chiếc xe ô tô trên đã được cơ quan điều tra – Công an thành phố Thái Nguyên trả lại, nên anh không yêu cầu đề nghị gì.

Người chứng kiến Anh Bùi Anh T trình bày: Vào khoảng 05 giờ ngày 24/8/2023 khi anh T đang đạp xe tập thể dục tại khu vực đường Quang Trung, thuộc tổ 12, phường Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên thì thấy có đông người đang tập trung, nên anh T đã vào xem thì thấy bên trong xe ô tô BKS: 20A-452.xx có 03 nam giới có biểu hiện không tỉnh táo (ngáo), sau đó anh T được tổ công tác của công an phường Đồng Quang mời chứng kiến việc kiểm tra xe ô tô và 03 nam giới trên. Quá trình kiểm tra Cơ quan công an đã phát hiện và thu giữ 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (N khai nhận đó là ma túy dạng ke); 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng được uốn cong dạng ống hút, hai đầu gắn bằng vỏ đầu lọc thuốc lá, 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng và 01 bật lửa ga, màu đỏ; 01 miếng giấy ăn màu trắng, bên trong có chứa 01 mảnh viên nén màu xám (N khai nhận đó là ma túy dạng kẹo) và 03 chiếc điện thoại của 03 nam giới trên. Sau đó tổ công tác đã tiến hành lập biên bản, niêm phong vật chứng trên, rồi đưa 03 thanh niên trên cùng vật chứng về cơ quan công an để giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong điều tra, truy tố: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Võ Hoài N và Trịnh Công Gtại phiên toà hôm nay là khách quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra; phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 05 giờ, ngày 24/8/2023, tại tổ 12, phường Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên Võ Hoài N có hành vi tàng trữ trái phép 0,769 gam chất ma túy loại Ketamine và 0,231 gam chất ma túy, loại MDMA để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên phát hiện và thu giữ vật chứng. Ngoài ra, trước đó vào khoảng 02 giờ ngày 24/8/2023, tại trạm dừng nghỉ Hải Đăng, thuộc tổ dân phố Trại, phường Tân Phú, thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, Võ Hoài N có hành vi chuẩn bị dụng cụ (là tờ tiền 1.000đ và 01 ống hút quấn bằng tờ tiền polime, mệnh giá 10.000đ, 02 đầu ống hút được bọc bằng đầu lọc thuốc lá) rồi cung cấp trái phép chất ma túy loại MDMA và Ketamine cho Trịnh Công G và Nguyễn Đức V sử dụng bằng hình thức nuốt và hít. Trịnh Công Gcó hành vi cung cấp trái phép chất ma túy chất ma túy loại Ketamine cho Nguyễn Đức Vsử dụng bằng hình thức hít.

Hành vi do các bị cáo Võ Hoài N và Trịnh Công Gthực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý, sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Trong đó Võ Hoài N có hành vi tàng trữ trái phép 0,769 gam chất ma túy loại Ketamine và 0,231 gam chất ma túy, loại MDMA nhằm mục đích sử dụng cho bản thân; Hành vi chuẩn bị dụng cụ để sử dụng ma túy rồi cung cấp dụng cụ và chất ma túy trái phép cho 02 người sử dụng, nên đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự. Trịnh Công G có hành vi cung cấp trái phép ma túy cho 01 người sử dụng, nên phạm vào tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 48/CT-VKSTPTN, ngày 05/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ.

Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

.....

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này”.

Điều 255 của Bộ luật hình sự quy định:

"1. Người nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm” 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a)...

b) Đối với 02 người trở lên;” [3]. Xét tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân, động cơ dẫn đến việc phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Hành vi phạm tội do bị cáo Võ Hoài N thực hiện thuộc loại tội nghiêm trọng và tội rất nghiêm trọng; Hành vi phạm tội do Trịnh Công Gthực hiện thuộc loại tội nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, nên cần phải xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự nhằm mục đích răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung. Nguyên nhân, động cơ dẫn đến việc phạm tội do bị cáo không chịu lao động, tu dưỡng, để phục vụ cho nhu cầu bản thân, các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu trên.

[4]. Xét các yếu tố về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy rằng:

- Về nhân thân: Các bị cáo đều xuất thân từ gia đình nông nghiệp, từ nhỏ được gia đình nuôi ăn học đến hết lớp 10/12, sau đó nghỉ học ở nhà và lao động tự do tại địa phương. Bản thân các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự (đối với bị cáo Võ Hoài N năm 2020 bị Công an thành phố Thái Nguyên, xử phạt 750.000 đồng về hành vi “Đánh nhau”).

- Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình – Do đó các bị cáo đều được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Các bị cáo đều không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5]. Xét tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các yếu tố về nhân thân, HĐXX thấy rằng cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo, mới đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời răn đe, giáo dục phòng ngừa chung. Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với các bị cáo là phù hợp.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 255 của Bộ luật hình sự, thì người phạm tội còn có thể bị phạt bổ sung một khoản tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên: Xét thấy các bị cáo phạm tội không vì mục đích vụ lợi, không có tài sản, thu nhập ổn định, nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[7]. Việc xử lý đối tượng liên quan đến vụ án:

Liên quan đến vụ án này theo Võ Hoài N khai nguồn gốc số má túy do N tàng trữ và cung cấp cho Trịnh Công G và Nguyễn Đức V sử dụng là do một người tên Đ cho vào khoảng 02 giờ ngày 24/8/2023. Tuy nhiên, N không biết rõ họ tên, địa chỉ cụ thể của Đ, nên Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thái Nguyên không căn cứ để điều tra, làm rõ.

Đối với Nguyễn Đức V có hành vi sử dụng ma túy trái phép chất ma túy cùng với Võ Hoài N và Trịnh Công G vào ngày 24/8/2023. Hành vi của Nguyễn Đức V không cấu thành tội phạm, nên ngày 10/01/2024, Công an thành phố Thái Nguyên đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đ đối với Nguyễn Đức V về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” là phù hợp.

Đối với Anh Đỗ Gia Q có hành vi cho Võ Hoài N mượn chiếc xe ô tô BKS: 20A-452.xx, sau đó N sử dụng vào việc tàng trữ trái phép chấy ma túy và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trên xe ô tô. Tuy nhiên quá trình điều tra xác định, khi cho Võ Hoài N mượn chiếc xe ô tô trên Anh Đỗ Gia Q không biết Võ Hoài N sử dụng vào việc phạm tội, nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Thái Nguyên đã không xử lý đối với Anh Đỗ Gia Q là phù hợp.

Đối với hành vi điều khiển xe ô tô không có giấy phép lái xe, điều khiển xe trên đường mà có sử dụng chất ma túy, không chú ý quan sát dẫn đến tai nạn giao thông của Võ Hoài N: Ngày 22/9/2023 Chủ tịch Ủy ban nhân tỉnh Thái Nguyên đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Võ Hoài N số tiền 57.000.000đ.

[8]. Về vật chứng vụ án:

- Đối với vật chứng là chiếc xe ô tô nhãn hiệu Vinfast, số loại: Luc A2.0, BKS:

20A-452.xx: Quá trình điều tra xác định chiếc xe ô tô trên là tài sản hợp pháp của Anh Đỗ Gia Q, khi các bị cáo sử dụng chiếc xe trên vào việc phạm tội anh Q không biết và không tham gia giúp sức cho các bị cáo, nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thái Nguyên đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu quản lý, sử dụng là phù hợp.

- Còn lại các vật chứng gồm: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu A1 bên trong chứa 0,643 gam mẫu vật còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A1; 01 (một) bì niêm phong ký hiệu A3 bên trong chứa 0,101 gam mẫu vật còn lại sau giám định và vỏ bao mẫu A3;

01 (một) bì niêm phong ký hiệu A2 bên trong chứa vỏ bao mẫu vật niêm phong ban đầu;

01 bật lửa ga đã qua sử dụng và 03 (ba) chai nhựa niêm phong ký hiệu N1, N2, N3 - Xác định là vật cấm lưu thông, không còn giá trị sử dụng nên cần xử lý tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu IPHONE, số IMEI:

353154103247373 (trong phong bì niêm phong ký hiệu B1 thu giữ của Võ Hoài N) và chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu IPHONE, số IMEI: 355737077960647 (trong phong bì niêm phong ký hiệu B2 thu giữ của bị cáo Trịnh Công G) – Xác định không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng cần tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

- Đối với điện thoại di động, nhãn hiệu IPHONE, số IMEI: 355769070901807 (trong phong bì niêm phong ký hiệu B3 thu giữ của Nguyễn Đức V) - Xác định không liên quan đến việc phạm tội, nên cần xử lý trả lại cho Nguyễn Đức V.

- Đối với 01 (một) tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng (trong phong bì niêm phong ký hiệu A4) – xác định là công cụ dùng cho việc phạm tội, nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước:

Ngoài ra lưu theo hồ sơ vụ án còn có 02 đĩa DVD-R, nhãn hiệu Verbatim, 4,7GB ghi hình hỏi cung các bị can – Xác định là vật chứng dưới dạng thiết bị điện tử của hoạt động điều tra, cần lưu theo hồ sơ vụ án, HĐXX không xử lý.

[9]. Về chi phí tố tụng: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10]. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về căn cứ áp dụng pháp luật:

1.1. Căn cứ: Điểm i khoản 1 Điều 249, điểm b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 55 của Bộ luật hình sự; Các Điều 329, 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự (đối với bị cáo Võ Hoài N).

1.2. Căn cứ: Khoản 1 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự; Các Điều 329, 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự (đối với bị cáo Trịnh Công G).

2. Về tội danh và hình phạt:

2.1. Về tội danh: Tuyên bố Bị cáo Võ Hoài N phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo Trịnh Công G phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

2.2. Về hình phạt:

2.2.1. Xử phạt bị cáo Võ Hoài N 07(bảy) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; Xử phạt bị cáo Võ Hoài N 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 08 (tám) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/8/2023.

2.2.2. Xử phạt bị cáo Trịnh Công G 28 (hai mươi tám) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 29/12/2023.

Tiếp tục tạm giam các bị cáo Võ Hoài N, Trịnh Công G 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo công tác thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu A1 bên trong chứa 0,643 gam mẫu vật còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A1; 01 (một) bì niêm phong ký hiệu A3 bên trong chứa 0,101 gam mẫu vật còn lại sau giám định và vỏ bao mẫu A3; 01 (một) bì niêm phong ký hiệu A2 bên trong chứa vỏ bao mẫu vật niêm phong ban đầu; 01 bật lửa ga đã qua sử dụng và 03 (ba) chai nhựa niêm phong ký hiệu N1, N2, N3.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng và 01 (một) tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng (trong phong bì niêm phong ký hiệu A4).

- Tiếp tục tạm giữ của bị cáo Võ Hoài N 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu IPHONE, số IMEI: 353154103247373 (trong phong bì niêm phong ký hiệu B1); của bị cáo Trịnh Công G01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu IPHONE, số IMEI: 355737077960647 (trong phong bì niêm phong ký hiệu B2) để đảm bảo công tác thi hành án.

- Trả lại cho Anh Nguyễn Đức V 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu IPHONE, số IMEI: 355769070901807 (trong phong bì niêm phong ký hiệu B3) (Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng số 108, ngày 07/3/2024 giữa Công an thành phố Thái Nguyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).

4. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Võ Hoài N và Trịnh Công G, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo (Võ Hoài N và Trịnh Công G), Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (Anh Nguyễn Đức V) có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (Anh Đỗ Gia Q) vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 57/2024/HS-ST

Số hiệu:57/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về