Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 57/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 57/2022/HS-PT NGÀY 19/07/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 32/2022/TLPT-HS ngày 11 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Vũ Ngọc H, do có kháng cáo của bị cáo H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2022/HS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận L, thành phố H Phòng.

- Bị cáo bị kháng cáo:

Vũ Ngọc H, sinh ngày 07 tháng 4 năm 1974 tại H Phòng. Đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 5B105, tổ 8, phường C, quận Hải An, thành phố H Phòng; nơi sinh sống: không có nơi ở cố định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Ngọc T và bà Lê Thị Đ (đều đã chết); có vợ thư nhất là Lê Thanh Đ (đã chết), vợ thứ hai: Mạc Thị V, sinh năm 1976 (không đăng ký kết hôn), vợ thứ ba: Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1976 (không đăng ký kết hôn); có 03 con, con lớn sinh năm 1994; con nhỏ sinh năm 2012; tiền án: Có 02 tiền án: Bản án số 184/HSST ngày 04/12/2001 của Tòa án nhân dân quận N, thành phố Hải Phòng xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (chưa được xóa); Bản án số 17/2014/HSST ngày 10/4/2014 Tòa án nhân dân quận H , thành phố Hải Phòng xử phạt 42 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, ngày 09/6/2014 Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm; Bản án số 55/2014/HSPT ngày 09/6/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy(chưa được xóa); nhân thân: Có 01 tiền án đã xóa (Bản án số 21/2007/HSST ngày 30/01/2007 Tòa án nhân dân quận N, thành phố Hải Phòng xử phạt 18 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản); bị tạm giữ ngày 23/9/2021; tạm giam ngày 27/9/2021; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ sáng ngày 24/9/2020 Đỗ Văn L; Bùi Thị Bích P; Quách Thị T; Vũ Ngọc H và Lê Thị Diệu M chơi ở bar MDM trên đường Lê Hồng Phong, quận N, thành phố Hải Phòng về, khi ra đến cửa quán thì T rủ P đi lấy ma túy về tiếp tục sử dụng. Sau đó, P nói lại với L về việc này. Khi cả nhóm đi ăn đêm, L nhắn tin cho P hỏi T có lấy ma túy nữa không để L mua ma túy của Mạnh. P và T bàn bạc, thống nhất về việc T bỏ tiền ra mua ma túy về để cả nhóm sử dụng sau đó P và L sẽ trả lại tiền cho T sau. T hỏi H có đi chơi tiếp không thì H nói H đi có việc xong sẽ quay lại và lưu lại số điện thoại của T. Sau đó T, P, L, M đi taxi về nhà L, còn H đi có việc riêng.

Tại nhà của L, T nhắn tin cho H thì H nhắn lại sẽ mang ma túy đến để cả nhóm sử dụng, T cho P xem tin nhắn này, thì P rủ M cùng đi sử dụng ma túy, M đồng ý. L bảo T, P, M đến nhà nghỉ để sử dụng ma túy. L gọi điện cho Trần Kinh K, sinh năm:

1995, HKTT: số 171/ Lê Lợi, quận N, thành phố Hải Phòng là nhân viên nhà nghỉ Motel 89, nhờ K đặt phòng hộ. Sau đó L cầm bộ loa và đèn màu cất vào trong cốp xe điện của M rồi đi bộ còn P, T, M đi xe máy điện của M đến nhà nghỉ Motel 89.

Khi thuê phòng, T đưa chứng minh thư nhân dân của T cho L để thuê phòng số 305. Nhận phòng xong, T chờ lâu không thấy H đến nên nhắn tin giục H mang ma túy đến, H nhắn lại với T chỉ có Ketamine, không có thuốc lắc, mọi người đợi H đi lấy thêm. Sau đó, T quay sang nói với P và L về việc H chỉ có Ketamien, không có thuốc lắc. L bảo với mọi người L sẽ đi lấy cho nhanh và pH trả tiền luôn nên T bảo L cứ đi lấy ma túy, T sẽ chuyển khoản. L lấy xe máy điện của M đi mua ma túy. L gọi điện đến số thuê bao 0772278168 cho Trương Ngọc M, sinh năm: 1987, HKTT: tổ 5, phường B, quận K, thành phố Hải Phòng hỏi mua 05 viên thuốc lắc và 01 gam Ketamine.

L đi ra ngoài được một lúc thì H đến, T và P cùng nhìn thấy H dùng tay pH lấy 01 gói nilon màu trắng để ra bàn. Khoảng 10 phút sau L đi về, L lấy ra 02 túi đựng thuốc lắc và Ketamine để lên trên bàn thì thấy trên mặt bàn có sẵn 01 túi nilon đựng Ketamine. L lấy túi nilon đựng ma túy thuốc lắc bản thân vừa mua được, chia cho P, M, T và H mỗi người một viên và cất 01 túi nilon đựng Ketamine còn lại vào túi quần phía trước bên pH. L, H, T mỗi người sử dụng một viên thuốc lắc, hai viên còn lại P bẻ đôi 01 viên và bảo M mỗi người sử dụng nửa viên. P sử dụng trước, một lúc sau M tự ra lấy nửa viên còn lại sử dụng. Đến gần sáng P tiếp tục sử dụng nửa viên thuốc lắc, nửa viên còn lại P cho vào túi nilon đựng trong vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Vinataba. Khi K lên phòng 305, L bảo K cho mượn chiếc đĩa sứ, K hiểu ý L lấy đĩa sứ để đánh Ketamine nên K đi lấy đĩa sứ đưa cho L. L đổ hết Ketamine mà H mang đến vào đĩa, rồi dùng thẻ màu trắng đánh mịn số Ketamine trên, tự lấy tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng cuộn thành ống hút. L tự sử dụng Ketamine trong đĩa sứ rồi bảo mọi người sử dụng, sau đó L để đĩa trên mặt bàn và đi nằm. T và H sử dụng Ketamine để trong đĩa sứ. Khi K lên phòng, L mời K sử dụng thuốc lắc nhưng K nói chỉ sử dụng Ketamine, L chỉ đĩa sứ trên bàn nói: “Ke đây”. K nhìn thấy tất cả mọi người trong phòng đều sử dụng ma túy nên K tự sử dụng Ketamine có trong đĩa. Trong quá trình ở tại phòng 305, P và M tự sử dụng Ketamine nhiều lần. Ngủ dậy, L thấy không còn Ketamine nên đã lấy túi nilon có chứa Ketamine trong túi quần ra, đổ một ít vào đĩa sứ, dùng thẻ nhựa đánh mịn rồi tiếp tục sử dụng.Sau đó L để đĩa sứ có Ketamine vừa đánh và túi Ketamine ở trên bàn rồi tiếp tục ngủ thì bị lực lượng Công an vào kiểm tra, bắt quả tang.

Quá trình kiểm tra phát hiện trong phòng nghỉ có 05 đối tượng: Đỗ Văn L; Bùi Thị Bích P; Quách Thị T; Vũ Ngọc H và Lê Thị Diệu M. Cơ quan Công an thu giữ trên mặt bàn 01 vỏ bao thuốc lá bên trong có 01 túi nilon màu trắng chứa nửa viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp. Thu giữ trên ghế cạnh bàn 01 túi nilon màu trắng chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp. Thu giữ trên táp ở đầu giường ngủ 01 đĩa sứ màu trắng, trên mặt đĩa có bám dính chất bột màu trắng, 01 ống hút được cuộn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng và 01 thẻ nhựa màu trắng. Ngoài ra, còn thu giữ 01 loa nghe nhạc và 01 đèn chiếu màu, thu giữ 01 điện thoại Iphone 7 màu đen của H, 01 điện thoại Nokia 1202 màu đen của L, 01 điện thoại Iphone 6S màu bạc của T, 01 điện thoại Iphone 6S Plus màu ghi của P, 01 điện thoại Iphone 7 Plus màu đỏ cùng 01 xe máy điện của M.

Tại Bản kết luận giám định số 618 ngày 29/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: “Tinh thể màu trắng chứa trong 01 túi nilon thu giữ là ma túy, có khối lượng 0,93 gam, là loại Ketamine. ½ viên nén màu hồng là ma túy, có khối lượng 0,28 gam, là loại MDMA. Chất bột màu trắng bám dính trên đĩa sứ là ma túy, loại Ketamine, không đủ điều kiện để xác định khối lượng của chất ma túy”.

Kết quả kiểm tra chi tiết điện thoại của Vũ Ngọc H và Quách Thị T, có lưu giữ nội dung tin nhắn trong điện thoại của H về việc T bảo H mua ma túy về để cả nhóm cùng sử dụng, H đồng ý. Khi T nói H mang ma túy “kẹo” thì H bảo chỉ có Ketamine, nếu muốn lấy ma túy “kẹo” thì để H đi lấy, T bảo thôi H cứ đến vì mọi người đang đợi. Đến khoảng 05 giờ ngày 24/9/2020, T nhắn tin nhờ H chuyển khoản tiền mua ma túy, T sẽ trả lại cho H sau vì tài khoản của T đang bảo trì không chuyển khoản được.

Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận L đã triệu tập Trần Kim K đến trụ sở làm việc. Tại Cơ quan điều tra, Trần Kim K khai phù hợp với lời khai của L, P, T và M.

Tại cơ quan Điều tra,Vũ Ngọc H không thừa nhận hành vi mang ma túy đến phòng 305 nhà nghỉ Motel89 nhưng khai nhận diễn biến sự việc như nội dung đã nêu trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận L đã cho H đối chất với L, P, T, M, tất cả các đối tượng giữ nguyên lời khai của mình.

Kết quả test nhanh ma túy: H, L, P, T, M đều dương tính với MDMA và Ketamine, K chỉ dương tính với Ketamine.

Xác định tình trạng nghiện ma túy, kết luận: H, T, P, K, M không pH là người nghiện.

Ngày 20/8/2021, Tòa án nhân dân quận L đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm các bị cáo Đỗ Văn L, Quách Thị T, Bùi Thị Bích P về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, theo quy định tại khoản 1 Điều 255 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa các bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Sau khi hành vi phạm tội bị phát hiện, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận L đã ra Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Vũ Ngọc H, tuy nhiên Vũ Ngọc H bỏ trốn khỏi địa P, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận L đã ra Quyết định truy nã số 04 ngày 13/4/2021.

Ngày 22/9/2021 Vũ Ngọc H bị Công an phường Lạc Viên bắt theo Lệnh truy nã và ngày 23/9/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận L ra Quyết định đình nã số 06 đối với Vũ Ngọc H.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số hình sự sơ thẩm số 39/2022/HS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2022 Tòa án nhân dân quận L đã:Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 255; Điều 38;Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Vũ Ngọc H 08 (Tám) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 23 tháng 9 năm 2021.

Ngoài ra bản án còn tuyên xử lý vật chứng, phần án phí, tuyên quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12 tháng 4 năm 2022, bị cáo Vũ Ngọc H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Vũ Ngọc H khai nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung bản án hình sự sơ thẩm đã nêu, thừa nhận có bàn bạc với P và đã mua ma túy (Ketamine) về để cả nhóm sử dụng, việc xét xử bị cáo về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là không oan, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt. .

Sau phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát trình bày quan điểm giải quyết vụ án: Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tuyên phạt bị cáo H 08 năm tù là có căn cứ. Bản án sơ thẩm chưa đánh giá về việc bị cáo còn 01 tiền án đã được xóa và quá trình điều tra đã bỏ trốn, bị bắt truy nã, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, cần đánh giá có nhân thân xấu để xem xét khi lượng hình là còn thiếu sót, cần rút kinh nghiệm. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, khai báo thành khẩn nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo. Ngoài ra, bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, cần bổ sung thêm đánh giá về quá trình nhân thân của bị cáo như nêu trên, đối trừ với việc áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để không tăng thêm hay giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Ngọc H. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bản thân đang bị bệnh, sức khỏe kém để giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Kháng cáo của các bị cáo Vũ Ngọc H trong thời hạn luật định và hợp lệ nên được xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

- Về tội danh:

[2] Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Vũ Ngọc H không thừa nhận hành vi mang ma túy đến phòng 305 nhà nghỉ Motel89 nhưng thừa nhận nội dung tin nhắn trong điện thoại thu giữ của H và diễn biến sự việc như nội dung cáo trạng đã nêu. Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện: Có việc T bảo H đi mua ma túy về chơi tiếp, H đồng ý; nội dung tin nhắn T nhắn tin cho H (điện thoại có đuôi …2892) nói H mang ma túy “kẹo” thì H nói chỉ có mỗi Ketamine, nếu muốn lấy ma túy “kẹo” thì để H quay về lấy “kẹo” nữa; có việc L gọi điện cho H (điện thoại có đuôi...8111) để hỏi H có loại ma túy gì thì H trả lời chỉ mang theo Ketamine.

[3] Căn cứ vào lời khai nhận tội của Đỗ Văn L, Quách Thị T và Bùi Thị Bích P khai phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của Lê Thị Diệu M (người làm chứng) phù hợp với biên bản kiểm tra hành chính tại Phòng 305 nhà nghỉ Motel 89; phù hợp với vật chứng thu giữ, Kết luận giám định, cùng tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa; đủ cơ sở xác định: Khoảng hơn 2h ngày 24/9/2020, Vũ Ngọc H cùng với Đỗ Văn L, Quách Thị T, Bùi Thị Bích P có hành vi thuê địa điểm, cung cấp ma túy cho Lê Thị Diệu M sử dụng thì bị bắt quả tang tại Phòng số 305, nhà nghỉ Motel 89, phường Kênh Dương, quận L, thành phố H Phòng.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án hình sự sơ thẩm, phù hợp với toàn bộ tài liệu, chứng cứ nêu trên. Nên đủ cở sở khẳng định Vũ Ngọc H phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo Vũ Ngọc H có 03 tiền án trong đó có 02 tiền án chưa được xóa nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, là tình tiết tặng nặng định khung hình phạt được quy định tại điểm h khoản 2 Điều 255 BLHS. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy quy định tạiđiểm h khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự là đúng.

- Xét kháng cáo của bị cáo:

[4] Xét đề nghị giảm nhẹ hình phạt tù đối với bị cáo: Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào, luôn có biểu hiện chống đối, không hợp tác với các cơ quan tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử, có thể thấy ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo không tốt, không ăn năn, hối cải. Do vậy, không thể áp dụng tình tiết giảm nhẹ nào cho bị cáo. Ngoài ra, như đại diện Viện kiểm sát thành phố Hải Phòng đã phân tích, cấp sơ thẩm còn thiếu sót là chưa đánh giá về việc bị cáo còn 01 tiền án đã được xóa và quá trình điều tra đã bỏ trốn , bị bắt truy nã, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, cần đánh giá có nhân thân xấu để xem xét khi lượng hình. Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, nên cần đối trừ tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo của bị cáo với nhân thân của bị cáo như đại diện Viện kiểm sát đã nêu để nhận định mức án 08 (tám) năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là có cơ sở và cũng đã chiếu cố cho bị cáo.

[5] Tại phiên phúc thẩm, bị cáo không đưa ra được chứng cứ nào mới để xem xét giảm nhẹ hình phạt.

[6] Với phân tích trên, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên án sơ thẩm.

[7] Bị cáo pH chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[8] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình phạt:

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Ngọc H, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 39/2022/HS-ST ngày 31/3/2022 Tòa án nhân dân quận L.

Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51,Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Vũ Ngọc H 08 (Tám) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 23 tháng 9 năm 2021.

2. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Vũ Ngọc H pH chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

3. Các quyết định khác trong Bản án hình sự sơ thẩm số: 39/2022/HS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2022 Tòa án nhân dân quận L, thành phố Hải Phòng không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 57/2022/HS-PT

Số hiệu:57/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về