Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 52/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 52/2023/HS-PT NGÀY 24/02/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 02 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 444/2022/TLPT-HS ngày 24/11/2022 đối với bị cáo Trịnh Xuân T và đồng phạm do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai, kháng cáo của bị cáo Đặng Bá L3 đối với bản án hình sự sơ thẩm số 187/2022/HS-ST ngày 21/10/2022 của Tòa án nhân dân huyện T7 Các bị cáo bị kháng nghị, kháng cáo:

1. Trịnh Xuân T (Tên gọi khác: T cá), sinh ngày 11/11/2000, tại Hải Phòng.

Nơi cư trú: thôn N, xã Đ, huyện L, TP Hải Phòng. Chỗ ở hiện nay: tổ 24, khu H, thị trấn T1, huyện T1, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam, Giới tính: Nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không, Nghề nghiệp: Không có. Trình độ học vấn: Lớp 9/12. Con ông: Trịnh Xuân T2, sinh năm: 1982, con bà: Lương Thị L1, sinh năm: 1982. Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/4/2022 (Có mặt)

2. Nguyễn Thành L2, sinh ngày 05/8/2000, tại Thanh Hóa.

Nơi cư trú: Tổ 9, khu 12, xã Đ, huyện T1, Đồng Nai. Chỗ ở hiện nay: ấp 3, xã P, huyện T1, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam, Giới tính: Nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: Lớp 12/12.

Con ông Nguyễn Quang L4, sinh năm: 1977 và bà Lê Thị Y, sinh năm: 1971. Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/4/2022 (Có mặt).

3. Đặng Bá L3, sinh ngày 17/4/2000, tại Hải Phòng.

Nơi cư trú: thôn T3, xã T4, huyện L, thành phố Hải Phòng. Quốc tịch: Việt Nam, Giới tính: Nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Tự do. Trình độ học vấn: Lớp 12/12. Con ông Đặng Bá T5, sinh năm: 1974 và bà Đỗ Thị Đ1, sinh năm: 1975 . Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

N3 thân: Ngày 27/5/2022, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Lão, TP. Hải Phòng ra Quyết định khởi tố bị can về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/4/2022 (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm:

Khoảng 22 giờ ngày 29/4/2022 sau khi đi hát và ăn uống, Trịnh Xuân T, Đặng Bá L3 rủ nhau đi sử dụng ma túy. T1 điện thoại rủ Nguyễn Thành L2 cùng đi, L2 đồng ý. L2 gọi điện qua mạng Zalo cho Nguyễn Đình N1 (quản lý Nhà Nghỉ 24/7 thuộc ấp 3, xã T6, huyện T7, tỉnh Đồng Nai) thuê phòng để sử dụng ma túy, N1 đồng ý. L2 hẹn T1, L3, đến nhà nghỉ 24/7. N1 bố trí cho cả nhóm vào phòng số 05 lầu 02 của nhà nghỉ. L2 mang theo loa nghe nhạc và đèn nháy vào phòng phục vụ cho việc sử dụng ma túy. T1, L2, L3 bàn bạc thỏa thuận cùng góp tiền để sử dụng ma túy, riêng N2 được T1 rủ đi chơi nên không phải hùn tiền.

Sau khi thỏa thuận xong, T1 chuyển khoản đưa cho L2 5.000.000 đồng để L2 đi mua ma túy và trả tiền thuê phòng. L2 điện thoại rủ Nguyễn Thị Mỹ N3 đến cùng sử dụng ma túy, đồng thời liên lạc với T8 (không rõ họ tên địa chỉ) để hỏi mua nửa hộp ma túy dạng khay và bốn viên ma túy dạng kẹo với tổng số tiền là 4.500.000 đồng. Đến khoảng 23h50 phút cùng ngày, có 02 thanh niên (không rõ lai lịch) đến gần nhà nghỉ gặp T1 và L2 để giao ma túy và nhận tiền. L2 đưa ma túy cho T1 mang lên phòng số 05, rồi đến quầy lễ tân thanh toán cho N1 600.000 đồng tiền thuê phòng, N1 cung cấp cho L2 01 đĩa sứ, 01 hộp quẹt ga để phục vụ việc sử dụng ma túy.

Tại phòng số 5, T1 cùng L2, L3, N2 và N3 mỗi người lấy 01 viên ma túy (kẹo) sử dụng. L2 lấy một tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, còn T1 lấy ra một tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng cuốn tròn, T1 lấy trong bóp ra một kit thẻ nhựa sim điện thoại để làm dụng cụ sử dụng ma túy và mở loa, đèn để cả nhóm cùng sử dụng ma túy. Đến khoảng 02 giờ ngày 30/04/2022, cả nhóm đang sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng số 05, nhà nghỉ 24/7 thì bị Công an xã T6 phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an huyện T7 phát hiện bắt quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 925/KLGĐ-PC09 ngày 06/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:

+ Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M11) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng 0,1615gam; Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,1260 gam.

+ Mẫu vật viên nén màu vàng (ký hiệu M12) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng 0,4370gam; Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,3391 gam.

+ Mẫu chất màu trắng (ký hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, loại Ketamine. Mẫu dạng vết không xác định được khối lượng.

Tang vật vụ án gồm:

+ 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn màu trắng (ký hiệu M11) và 01 viên nén màu vàng (ký hiệu M12) để trên đĩa.

+ 01 cái đĩa sứ hình tròn, 01 thẻ sim Vietnammobile, 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, 01 cái hộp quẹt ga.

+ 01 cái loa, 01 cái đèn chớp.

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7, màu đen đã qua sử dụng, của Nguyễn Thành L2 sử dụng liên lạc thuê nhà nghỉ và mua ma túy.

+ 01 điện thoại di động Iphone 13, màu xanh đã qua sử dụng, của Trịnh Xuân T sử dụng liên lạc với L2 để cho nhóm L2 thuê nhà nghỉ sử dụng ma túy.

+ 01 điện thoại di động hiệu Oppo đã qua sử dụng của Nguyễn Đình N1 dùng liên lạc với L2 cho thuê phòng.

+ 01 điện thoại di động Iphone đã qua sử dụng của Đặng Bá L3.

Tại bản án sơ thẩm số 86/2021/HS-ST ngày 28/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch đã áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt các bị cáo Trịnh Xuân T, Nguyễn Thành L2, Đặng Bá L3, Nguyễn Đình N1 cùng mức án 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 30/4/2022 đều về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Ngày 25/10/2022, bị cáo Đặng Bá L3 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt Ngày 04/11/2022, Viện trưởng VKSND tỉnh Đồng Nai ban hành kháng nghị số 375/QĐ-VKS-P7 đề nghị hủy bản án sơ sơ thẩm để điều tra lại do cho rằng khối lượng ma túy còn lại bị thu giữ đủ định lượng để xử lý hình sự theo quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Trịnh Xuân T, Nguyễn Thành L2, Đặng Bá L3, Nguyễn Đình N1 nhưng cấp sơ thẩm không truy cứu là bỏ lọt hành vi phạm tội.

- Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:

Hình thức, thời hạn kháng cáo, kháng nghị đảm bảo đúng quy định của pháp luật nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Về tội danh:

Trịnh Xuân T, Đặng Bá L3, Nguyễn Thành L2 đã thỏa thuận hùn tiền mua ma túy về phòng số 5 của nhà nghỉ 24/7 thuộc ấp 3, xã T6, huyện T7 tỉnh Đồng Nai để sử dụng trái phép chất ma túy cùng Triệu Kim N2 và Nguyễn Thị Mỹ N3. Nguyễn Đình N1 là người quản lý nhà nghỉ 24/7 biết nhóm T1 thuê nhà nghỉ để tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nhưng vẫn cho thuê phòng đồng thời cung cấp 01 dĩa sứ giúp cho nhóm T1 thực hiện hành vi tổ chức sử dụng ma túy. Cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Trịnh Xuân T, Nguyễn Thành L2, Đặng Bá L3, Nguyễn Đình N1 về tội danh “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo khoản 2 Điều 255 BLHS năm 2015 là có căn cứ. Do đó, VKSND tỉnh Đồng Nai rút một phần kháng nghị đối với bị cáo Nguyễn Đình N1 về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tuy nhiên, khối lượng chất ma túy các đối tượng chưa sử dụng còn lại bị thu giữ là ma túy loại MDMA có khối lượng 0,4370 gam đủ định lượng để xử lý hình sự theo quy định tại Điều 249 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy không loại trừ trách nhiệm hình sự hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Cấp sơ thẩm không truy cứu trách nhiệm hình sự các bị cáo Trịnh Xuân T, Nguyễn Thành L2, Đặng Bá L3 về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có dấu hiệu bỏ lọt hành vi phạm tội.

Từ các lý do trên, Kiểm sát viên đề nghị hủy toàn bộ bản án sơ thẩm của TAND huyện Nhơn Trạch để điều tra lại, do hủy án nên không xem xét kháng cáo của bị cáo Đặng Bá L3.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Về tố tụng: Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai, kháng cáo của bị cáo L3 được làm trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai rút kháng nghị đối với bị cáo Nguyễn Đình N1, xét việc rút kháng nghị này không làm ảnh hưởng đến phần kháng nghị khác và kháng cáo của bị cáo L3 nên căn cứ điều 342 của Bộ luật tố tụng hình sự Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phần kháng nghị đối với bị cáo N1.

2. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo khai nhận diễn biến, hành vi phạm tội đúng như bản án sơ thẩm đã mô tả, cụ thể:

Do nghiện ma túy nên ngày 29/4/2022, Trịnh Xuân T, Đặng Bá L3, Nguyễn Thành L2 đã thoản thuận cùng hùn tiền mua ma túy về sử dụng trái phép tại phòng số 5 Nhà nghỉ 24/7 thuộc ấp 3, xã T6, huyện T7, tỉnh Đồng Nai cùng với Triệu Kim N2 và Nguyễn Thị Mỹ N3.

Nguyễn Đình N1 là người quản lý Nhà nghỉ 24/7 biết rõ nhóm T1 thuê nhà nghỉ để tổ chức sử dụng ma túy nhưng vẫn cho thuê phòng, cung cấp cung cấp 01 đĩa sứ, 01 hộp quẹt ga giúp cho nhóm T1 thực hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Vào khoảng 02 giờ ngày 30/04/2022 khi cả nhóm đang sử dụng trái phép chất ma túy thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ 0,1615g ma túy loại Ketamine và 0,4370g ma túy loại MDMA đang sử dụng.

3. Xét kháng nghị :

Qua các chứng cứ được thu thập, Hội đồng xét xử nhận thấy đủ căn cứ xác định hành vi của các bị cáo Trịnh Xuân T, Nguyễn Thành L2, Đặng Bá L3 trong vụ án đã phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 như nhận định tại bản án sơ thẩm.

Xét thấy các bị cáo Trịnh Xuân T, Nguyễn Thành L2, Đặng Bá L3 bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, đang thực hiện hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Căn cứ vào biên bản phạm tội quả tang, lời khai của các bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm thì tại thời điểm bị phát hiện, bắt giữ hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của các bị cáo vẫn đang diễn ra, chưa kết thúc. Các bị cáo đang sử dụng ma túy nên số ma túy bị thu giữ đang nằm trên bàn, chưa cất giấu. Tại phiên tòa các bị cáo đều xác định T1 bộ số ma túy mua về đủ cho một lần sử dụng nên dự định sử dụng hết ngay trong đêm chứ không cất dấu mang về. Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử xác định trong tình huống trên, chưa đủ căn cứ xác định các bị cáo T1, L2, L3 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đối với số ma túy còn lại bị thu giữ trong đó có 0,4370g ma túy loại MDMA. Do đó kháng nghị của Viện trưởng VKSND tỉnh Đồng Nai đối với các bị cáo trên không có căn cứ chấp nhận.

4. Xét kháng cáo:

Từ các chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án đủ căn cứ xác định cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Đặng Bá L3 về tội danh “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng tình tiết bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội vai trò thứ yếu để xử phạt mức 07 năm 06 tháng tù là tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo.

Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo L3 phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

5. Quan điểm của Kiểm sát viên không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 3 Điều 342 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, đình chỉ xét xử phúc thẩm phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đối với bị cáo Nguyễn Đình N1.

2. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; Không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai và kháng cáo của bị cáo Đặng Bá L3, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 187/2022/HS-ST ngày 21/10/2022 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch

3. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt:

+ Trịnh Xuân T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/4/2022.

+ Nguyễn Thành L2 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/4/2022.

+ Đặng Bá L3 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/4/2022.

Cùng về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

4. Về án phí: Bị cáo L3 phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3687
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 52/2023/HS-PT

Số hiệu:52/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về