Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý số 42/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 42/2021/HS-ST NGÀY 24/11/2021 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 24 tháng 11 năm 2021, tại: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 39/2021/TLST - HS ngày 15 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2021/QĐXXST - HS ngày 10 tháng 11 năm 2021 đối với:

- Bị cáo: Trương Văn C, sinh ngày 01 tháng 4 năm 1968; tại: xã T , huyện V nay là thị xã N, tỉnh Yên Bái; nơi cư trú: Tổ dân phố V, thị trấn K, huyện V, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 10/10; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn H và bà Trần Thị Đ (đã chết); có vợ là Nguyễn Thị M và 03 con, con lớn sinh năm 1996 và con nhỏ sinh năm 2015; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Bản án số 12/ST – HS ngày 18 tháng 6 năm 2002 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Yên Bái, xử phạt Trương Văn C 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đã được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 20 – 7 – 2021 và bị tạm giam từ ngày 21 – 7 – 2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Yên Bái. (có mặt).

- Người làm chứng:

Anh Đinh Văn Đ, sinh năm 1970; nơi cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn K, huyện V, tỉnh Yên Bái. (có mặt).

Anh Bùi Văn T, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn M, xã Đ, huyện V, tỉnh Yên Bái. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 20 – 7 - 2021 Trương Văn C đang nằm hút thuốc phiện tại nhà ở của C, thuộc: Tổ dân phố V, thị trấn K, huyện V, tỉnh Yên Bái thì Đinh Văn Đ và Bùi Văn T đến nhà C. Khi vào nhà C thì Đ hỏi C còn không bố trí cho mỗi anh em vài điếu ý hỏi hút thuốc phiện. C bảo còn, T đưa cho C 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, C cầm tiền cất vào túi áo ngực rồi châm thuốc cho T nằm hút khoảng 03 đến 04 điếu thuốc phiện thì T ngồi dậy không hút nữa. Sau khi T hút xong thì Đ đưa cho C 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, C cầm tiền cho vào túi áo ngực rồi châm thuốc cho Đ nằm hút, Đ hút được khoảng 02 đến 03 điếu thuốc phiện thì bị tổ công tác của Công an huyện V phát hiện và kiểm tra vào hồi 08 giờ 40 phút ngày 20 – 7 - 2021. Kết quả kiểm tra thu giữ trên chiếu chỗ C đang ngồi 01 mảnh nilon màu xanh bên trong có chứa chất nhựa dẻo màu nâu đen (nghi là thuốc phiện); 01 đèn dầu tự chế màu xanh; 01 ống nứa trên thân có đục một lỗ nhỏ; 01 chày gỗ; 01 thanh kim loại một đầu dẹt một đầu nhọn; 01 chén sứ màu trắng; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 thìa nhựa màu xanh. Thu giữ trong túi áo trước ngực C đang mặc 02 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng và tại túi quần phía sau C đang mặc 01 ví giả da màu đen bên trong ví có 02 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng và 01 chứng minh nhân dân mang tên Trương Văn C. Hồi 09 giờ 00 phút ngày 20 – 7 - 2021 Tổ công tác của Công an huyện V đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng, tài sản đối với Trương Văn C.

Hồi 10 giờ 45 phút ngày 20 – 7 - 2021, Công an huyện V đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trương Văn C đã phát hiện, thu giữ 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa chất dẻo màu nâu đen (nghi là thuốc phiện) tại góc buồng gần chỗ C nằm hút thuốc phiện.

Kết quả điều tra Trương Văn C khai nhận: Do nghiện ma túy nên đã tự chế bàn đèn để hút thuốc phiện và thường xuyên mua thuốc phiện về nhà sử dụng nếu có ai đến hỏi hút thuốc phiện sẽ cho hút và thu tiền. C dùng sái thuốc phiện cho vào chén sứ giã nhỏ cùng với thuốc cảm APC sau đó cho một lượng thuốc phiện vào trộn lẫn rồi cho cả chén sứ lên ngọn lửa của đèn dầu hơ nóng cho sái thuốc phiện, thuốc cảm, thuốc phiện quện lại với nhau. Tiếp đó C dùng kim khều số chất dẻo trong chén ra dùng tay nặn thành các viên hình tròn bằng hạt đỗ đen để tiện sử dụng khi hút. Người nghiện đến hút từ 01 đến 03 điếu C sẽ thu 50.000 đồng và từ 06 đến 06 điếu sẽ thu 100.000 đồng. Khoảng 08 giờ ngày 20 – 7 - 2021 Trương Văn C đã tổ chức cho Đinh Văn Đ và Bùi Văn T sử dụng ma túy tại nhà C như đã nêu trên.

Trương Văn C còn tự khai nhận: Sáng ngày 18 – 7 – 2021, C đang nằm hút thuốc phiện ở nhà thì T và Đ đến hỏi hút thuốc phiện. Đ đưa cho C 50.000 đồng, C cầm tiền sau đó châm cho Đ hút khoảng 03 điếu thuốc phiện, sau đó T đưa cho C 100.000 đồng, C cầm tiền rồi châm cho T hút khoảng 04 điếu thuốc phiện.

Nguồn gốc số thuốc phiện mà C có để sử dụng và cho Đ, T sử dụng vào ngày 18 – 7 - 2021, Trương Văn C khai mua của một người phụ nữ dân tộc Mông không rõ tên tuổi, địa chỉ tại khu vực đập thủy điện, xã K, huyện T, tỉnh Yên Bái với giá 200.000 đồng; số thuốc phiện C có để sử dụng và cho Đ, T sử dụng vào ngày 20 – 7 - 2021 là do C mua của một người phụ nữ dân tộc Mông khác, không rõ tên tuổi, địa chỉ cũng tại khu vực đập thủy điện, xã K, huyện T, tỉnh Yên Bái với giá 200.000 đồng. Đối với số thuốc phiện bị thu giữ khi khám xét, C khai nhận do bản thân nhiều lần đi mua thuốc phiện về để sử dụng nên không nhớ số thuốc phiện này mua ở đâu, khi nào.

Quá trình điều tra Bùi Văn T và Đinh Văn Đ đều khai nhận số lần, số tiền đưa cho Trương Văn C để được hút thuốc phiện phù hợp với lời khai của Trương Văn C. Ngoài ra, kết quả điều tra xác định T và Đ đều là người nghiện đang điều trị thay thế chất dạng thuốc phiện (Methadone) tại Trung tâm y tế huyện V, tỉnh Yên Bái.

- Tại Bản kết luận giám định số 427/KLGĐ ngày 24 - 7 - 2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái kết luận: Số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) gửi giám định đều là tiền do ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành.

- Tại Bản kết luận giám định số 428/GĐMT ngày 26 - 7 - 2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái kết luận:

1. Chất nhựa dẻo màu nâu đen thu giữ khi bắt quả tang Trương Văn C có khối lượng là 0,15 gam (không phẩy mười lăm gam); 0,15 gam chất nhựa dẻo màu nâu đen gửi giám định là ma túy; là Thuốc phiện.

2. Chất nhựa dẻo màu nâu đen thu giữ khi khám xét chỗ ở của Trương Văn C có khối lượng là 0,69 gam (không phẩy sáu chín gam); 0,69 gam chất nhựa dẻo màu nâu đen gửi giám định là ma túy; là Thuốc phiện.

Thuốc phiện và các chế phẩm từ Thuốc phiện nằm trong Danh mục ID, STT: 47, Nghị định 60/2020/NĐ-CP ngày 29 – 5 - 2020 của Chính phủ.

Không hoàn lại đối tượng giám định * Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về Bản kết luận giám định nêu trên.

- Bản Cáo trạng số: 40/CT – VKS - VC ngày 14 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Yên Bái, truy tố bị cáo Trương Văn C về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo các điểm a, b, đ khoản 2 điều 255 của Bộ luật Hình sự.

* Bị cáo không khiếu nại gì đối với bản Cáo trạng và quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Yên Bái.

* Tại phiên tòa:

- Bị cáo Trương Văn C khai nhận rõ ràng, đầy đủ về hành vi phạm tội của mình và vật chứng cũng như tài sản tạm giữ, thu giữ nêu trên. Bị cáo đề nghị Tòa xem xét trả lại cho bị cáo Giấy chứng minh nhân dân và 100.000 đồng bị thu giữ.

- Kiểm sát viên trình bày luận tội và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trương Văn C được nêu trong Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố: Bị cáo Trương Văn C phạm tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Căn cứ vào các điểm a, b, đ khoản 2 Điều 255; các điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trương Văn C từ 09 năm đến 10 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo C.

3. Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ trong vụ án:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 03 vỏ phong bì đã mở niêm phong + mảnh nilon gói; 01 đèn dầu tự chế màu xanh; 01 chén sứ màu trắng đã cũ; 01 thìa nhựa màu xanh đã cũ; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 ống nứa dài 34cm, đường kính 3,5cm, trên thân có đục một lỗ nhỏ; 01 thanh kim loại dài 26 cm, một đầu nhọn, một đầu bẹp; 01 chày gỗ dài 13cm, đường kính trung bình 01cm;

- Tịch thu của Trương Văn C số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) mà C có được từ việc tổ chức cho Đinh Văn Đ và Bùi Văn T sử dụng trái phép chất ma túy ngày 20/7/2021 để sung vào ngân sách Nhà nước.

- Trả lại cho Trương Văn C 01 ví giả da màu đen qua sử dụng, đã cũ; 01 chứng minh nhân dân mang tên Trương Văn C và 100.000 đồng.

- Truy thu của Trương Văn C số tiền 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) mà C có được từ việc tổ chức cho Đinh Văn Đ và Bùi Văn T sử dụng trái phép chất ma túy ngày 18/7/2021 để sung vào ngân sách Nhà nước

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14. Bị cáo Trương Văn C phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

- Bị cáo không có ý kiến tranh luận đối đáp gì với Kiểm sát viên về tội danh, mức hình phạt, xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ và án phí trong vụ án.

- Bị cáo Trương Văn C nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện V, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Trương Văn C tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang và vật chứng thu giữ được trong vụ án; Phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; Phù hợp với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố Trương Văn C. Từ đó đã có đủ cơ sở kết luận: Trương Văn C là người nghiện ma túy (thuốc phiện), C đã tự làm bàn đèn để hút thuốc phiện. Đối với Đinh Văn Đ và Bùi Văn T đều là những người nghiện ma túy và hiện đang tham gia chương trình điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại Trung tâm y tế huyện V, tỉnh Yên Bái.

Khoảng 08 giờ ngày 20 – 7 – 2021 Đinh Văn Đ và Bùi Văn T đến nhà Trương Văn C, thuộc: Tổ dân phố V, thị trấn K, huyện V, tỉnh Yên Bái để sử dụng ma túy (thuốc phiện). T đưa cho C 100.000 đồng. Sau khi nhận tiền của T thì C dùng bộ bàn đèn hút thuốc phiện của mình và lấy thuốc phiện đã pha chế sẵn thành từng điếu rồi châm thuốc cho T nằm hút khoảng 03 đến 04 điếu thuốc phiện. T hút xong thì Đ đưa cho C 100.000 đồng, C nhận tiền của Đ rồi châm thuốc cho Đnằm hút, Đ hút được khoảng 02 đến 03 điếu thuốc phiện thì bị tổ công tác của Công an huyện V, tỉnh Yên Bái phát hiện bắt quả tang.

Trương Văn C còn tự nguyện khai nhận: Sáng ngày 18 – 7 – 2021 tại nhà ở của C thì T và Đ đến hỏi hút thuốc phiện. Đ đưa cho C 50.000 đồng, C cầm tiền sau đó châm cho Đ hút khoảng 03 điếu thuốc phiện. Sau đó T đưa cho C 100.000 đồng, C cầm tiền rồi châm cho T hút khoảng 04 điếu thuốc phiện.

Như vậy, với hành vi nêu trên đây của Trương Văn C đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý" với tình tiết định khung hình phạt là "Phạm tội từ 02 lần trở lên, “Đối với 02 người trở lên” và “Đối với người đang cai nghiện” theo quy định tại các điểm a, b, đ khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.

[3] Hội đồng xét xử xét: Chấp nhận nội dung Cáo trạng và đề nghị của Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Yên Bái tham gia phiên toà kết tội bị cáo Trương Văn C, phạm tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy" theo điểm a, b, đ khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo Trương Văn C đã vi phạm các quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội và sức khoẻ con người, làm cho tệ nạn nghiện chất ma tuý gia tăng. Đó còn là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, gây ảnh hưởng không tốt đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương, tội phạm mà bị cáo thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng có tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo Trương Văn C đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội. Bị cáo còn tự thú khai nhận hành vi phạm tội trước đó của mình. Bị cáo C có cha là ông Trương Văn H, ông H là người có công với nước và đã được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhất. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, cần được áp dụng đối với bị cáo C khi xem xét quyết định hình phạt.

[6] Về nhân thân:

Trước khi phạm tội bị cáo C là người không có tiền án, tiền sự. Nhưng bị cáo C đã 01 lần bị kết án và đã được xóa án tích như đã nêu trên. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều khai nhận là người nghiện ma túy (thuốc phiện). Như vậy, có thể thấy bị cáo là người có nhân thân chưa tốt.

[7] Từ những nhận định trên đây và căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự, xét thấy cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội, góp phần răn đe, giáo dục người khác ý thức tuân thủ pháp luật và nhằm mục đích đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.

[8] Về hình phạt bổ sung:

Bị cáo là người không có tài sản riêng, không nghề nghiệp và là người nghiện ma túy, sống phụ thuộc vào gia đình nên việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là không khả thi. Vì vậy HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo C.

[9] Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ:

+ Đối với 0,15 gam (không phẩy mười lăm gam) ma túy, là thuốc phiện thu giữ khi bắt quả tang Trương Văn C và 0,69 gam (không phẩy sáu chín gam) ma túy, là thuốc phiện thu giữ khi khám xét chỗ ở của Trương Văn C. Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái đã lấy làm mẫu giám định và không hoàn lại nên HĐXX không xem xét.

+ Đối với: 03 vỏ phong bì đã mở niêm phong + mảnh nilon gói; 01 bộ bàn đèn hút thuốc phiện gồm: 01 đèn dầu tự chế màu xanh; 01 chén sứ màu trắng đã cũ; 01 thìa nhựa màu xanh đã cũ; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 ống nứa dài 34cm, đường kính 3,5cm, trên thân có đục một lỗ nhỏ; 01 thanh kim loại dài 26 cm, một đầu nhọn, một đầu bẹp; 01 chày gỗ dài 13cm, đường kính trung bình 01cm. Đây là những vật không có giá trị sử dụng và cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Ngày 20 - 7 – 2021 Công an huyện V đã tạm giữ của Trương Văn C 01 ví giả da màu đen đã cũ, đã qua sử dụng và 01 Chứng minh nhân dân mang tên Trương Văn C. Xét các đồ vật này không liên quan đến tội phạm, tại phiên tòa thì bị cáo xin nhận lại chiếc ví giả da và Chứng minh nhân dân mang họ và tên bị cáo. Vì vậy cần trả lại cho bị cáo C chiếc ví giả và Chứng minh nhân dân mang tên Trương Văn C theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự + Số tiền 150.000 đồng mà Trương Văn C thu được từ việc cho Đinh Văn Đ và Bùi Văn T sử dụng trái phép chất ma túy (thuốc phiện) ngày 18 – 7 – 2021. Đây là tiền do C phạm tội mà có nên cần truy thu của C số tiền này để tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước, theo quy định tại khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Đối với số tiền thu giữ của Trương Văn C là 300.000 đồng đã được niêm phong trong một phong bì thư do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành, mặt trước phong bì có ghi: Tiền thu giữ khi bắt quả tang Trương Văn C (sau khi giám định).... Xét thấy trong số tiền 300.000 đồng thu giữ của Trương Văn C thì có 200.000 đồng là tiền mà C có được từ việc tổ chức cho Đinh Văn Đ và Bùi Văn T sử dụng trái phép chất ma túy (thuốc phiện) ngày 20 – 7 – 2021; số tiền còn lại 100.000 đồng là tiền thu nhập hợp pháp của C. Vì vậy, cần tịch thu của C số tiền 200.000 đồng để sung ngân sách Nhà nước và trả lại cho C 100.000 đồng, theo quy định tại khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 2 và khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14. Bị cáo Trương Văn C phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[11] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

[12] Các ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo tại phiên tòa có căn cứ pháp luật và phù hợp với nhận định của Tòa án đều được xem xét chấp nhận.

[13] Trong vụ án này: Đối với 02 người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy (thuốc phiện) cho Trương Văn C, C khai không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể của những người này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, xử lý. Đối với Đinh Văn Đ và Bùi Văn T là những người đã sử dụng trái phép chất ma túy tại nhà Trương Văn C. Kết quả điều tra xác định hành vi của Đ và T không cấu thành tội phạm nên Công an huyện V, tỉnh Yên Bái đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền đối với Đ và T là đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trương Văn C phạm tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”

2. Về hình phạt:

Căn cứ vào các điểm a, b, đ khoản 2 Điều 255; các điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Trương Văn C 09 (chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 20 – 7 – 2021.

3. Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điểm a, b, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 03 (ba) vỏ phong bì đã mở niêm phong + mảnh nilon gói;

01 (một) đèn dầu tự chế màu xanh; 01 (một) chén sứ màu trắng đã cũ; 01 (một) thìa nhựa màu xanh đã cũ; 01 (một) bật lửa ga màu đỏ; 01 (một) ống nứa; 01 (một) thanh kim loại; 01 (một) chày gỗ.

- Truy thu của Trương Văn C số tiền 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.

- Tịch thu của Trương Văn C số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.

- Trả lại cho Trương Văn C: 01 (một) ví giả da màu đen đã cũ, đã qua sử dụng, 01 (một) Chứng minh nhân dân mang tên Trương Văn C và 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng).

Các vật chứng và tài sản tạm giữ nêu trên đã được Công an huyện V, tỉnh Yên Bái bàn giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Yên Bái theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 18 tháng 10 năm 2021.

4. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14. Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Trương Văn C phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

323
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý số 42/2021/HS-ST

Số hiệu:42/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về