Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 404/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐNG NAI

BẢN ÁN 404/2023/HS-PT NGÀY 20/09/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 247/2023/TLPT-HS ngày 19 tháng 7 năm 2023, đối với bị cáo Nguyễn Thị Hồng L do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 69/2023/HSST ngày 14/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.

Bị cáo có kháng cáo:

- Nguyễn Thị Hồng L, sinh năm 1999 tại tỉnh Trà Vinh. Nơi cư trú: Ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thụy Độc L1 và bà Lương Thị Hồng L2; có chồng là Nguyễn Thanh S, có 01 con sinh ngày 28/6/2020.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/7/2022 đến ngày 25/7/2022 được tại ngoại điều tra (vắng mặt).

Trong vụ án còn có những bị cáo khác, những người này không có kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thanh H, Huỳnh Phát T, Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Thị Hồng L là các đối tượng thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy. Vào khoảng 23 giờ ngày 15/7/2022, sau khi ăn nhậu với nhau xong, H rủ T đi sử dụng trái phép chất ma túy, T đồng ý và nói T có sẵn 01 gói ma túy để ở phòng trọ của T tại ấp B, xã P, huyện N. T thống nhất với H sẽ đến quán Karaoke “Ruby Light” tại khu phố P, thị trấn H, huyện N thuê phòng để sử dụng ma túy, H sẽ trả tiền thuê phòng.

Sau đó, H tiếp tục điện thoại rủ Đ cùng chuẩn bị ma túy sử dụng chung, Đ đồng ý. H điều khiển xe mô tô biển số 60B2-843.xx chở T về phòng trọ lấy gói ma túy đem đến quán K.

Lúc này, Đ rủ L đi sử dụng ma túy và nói L tìm người để mua ma túy góp chung với H cùng sử dụng, L đồng ý. L sử dụng điện thoại thông qua ứng dụng facebook nick “Bánh bèo” để liên lạc với Hùng P (chưa rõ nhân thân) có tài khoản facebook tên “HUNG PHO” mua 01 gói ma túy với giá 3.900.000 đồng, L chuyển khoản trả Hùng P (số tài khoản 1197134xx tên chủ tài khoản là Nguyễn Thế H1) 2.000.000 đồng và nợ số tiền còn lại. Đến khoảng 23 giờ 15 phút cùng ngày 15/7/2022, có 01 người sử dụng số điện thoại 0969.8526xx gọi vào số 0904.4053xx của L hẹn địa điểm giao nhận ma túy. Điền điều khiển xe mô tô biển số 67N1-294.xxchở L đi lấy ma túy mang đến quán K.

Điền, L, H, T thuê phòng số 305 quán K để sử dụng ma túy. Khi vào phòng, T đưa cho H 01 gói ma túy, L cũng đưa cho H 01 gói ma túy và 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng đã được cuộn sẵn. H đổ gói ma túy của L và một phần gói ma túy của T vào đĩa sứ có sẵn trên bàn trong phòng hát. Số ma túy còn lại đựng trong gói nylon H đưa cho L bỏ sau ghế để tiếp tục lấy sử dụng. Sau khi đổ ma túy, H dùng thẻ ATM mang theo cà nhuyễn ma túy rồi lấy hột quẹt “xào”ma túy để tất cả cùng sử dụng. H, T, Đ, L mở nhạc lớn trong phòng hát nhảy và cùng sử dụng ma túy. Do bị lỗi mạng bấm bài hát nên cả nhóm chuyển sang phòng 304 nhưng vẫn bị lỗi nên các đối tượng chuyển sang phòng 302 tiếp tục sử dụng ma túy.

Đến 00 phút ngày 16/7/2022, L gọi thêm Nguyễn Thị Ngọc N (sinh năm 1995, ngụ tại thôn B, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đaklak) và Nguyễn Ngọc T1 (sinh năm 2004, ngụ tại khóm F, phường F, thành phố C, tỉnh Cà Mau) đến cùng sử dụng ma túy. Khoảng 01 giờ 10 phút ngày 16/7/2022, N và T1 vào phòng 302 nhưng chưa sử dụng ma túy thì bị Công an huyện N phát hiện bắt quả tang.

* Vật chứng, tài sản thu giữ gồm:

- 01 gói nylon, kích thước khoảng 09 x 6 cm, bên trong chứa chất bột màu trắng được thu gom trên chiếc đĩa sứ đặt trên bàn phòng 302 (kí hiệu M1).

- 01 chiếc đĩa sứ màu trắng, bề mặt có bám dính chất bột màu trắng thu giữ trong phòng 302 karaoke ruby light (kí hiệu M2).

- 01 gói nylon, kích thước 2 x 1,5 cm bên trong chứa chất bột màu trắng (kí hiệu M3) của các đối tượng chưa kịp sử dụng.

- 01 thẻ ATM, màu xanh; 01 hộp quẹt gas; 01 tờ tiền mệnh giá 20.000đ được cuộn tròn là dụng cụ dùng vào việc sử dụng ma túy.

- 01 điện thoại di động màu trắng bên trong có gắn sim số 0904.4053xx của Nguyễn Thị Hồng L.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung bên trong có gắn sim số 08660062xx của Huỳnh Phát T.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone bên trong có gắn sim số 09787059xx và 01 xe môtô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu xanh, biển số 67N1 - 294.xx của Nguyễn Văn Đ.

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo bên trong có gắn sim số 0919.0863xx của Nguyễn Thanh H.

- 01 xe môtô hiệu Vario 125, màu xanh, trắng đen, biển số 60B2 - 843.xx do H mượn của bà Nguyễn Thị T2.

* Tại Kết luận giám định số 1492/KL-KTHS ngày 22/7/2022 của Phòng K1 Công an tỉnh Đ xác định:

+ Mẫu chất bột màu trắng (kí hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,7586 gam, loại Katemine.

+ Mẫu chất bột màu trắng (kí hiệu M2) dính trên 01 đĩa sứ màu trắng hình tròn được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, loại Katemine. Mẫu dạng vết không xác định được khối lượng.

+ Mẫu chất bột màu trắng (kí hiệu M3) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,6741 gam, loại Katemine.

Tại bản án 69/2023/HSST ngày 14/04/2023 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai đã áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; Điều 17, 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hồng L 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 16/7/2022 đến ngày 25/7/2022.

Ngoài ra bản án còn tuyên về biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Vào ngày 24 tháng 4 năm 2023 bị cáo Nguyễn Thị Hồng L làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa, bị cáo L vắng mặt không có lý do, Hội đồng xét xử vắng mặt bị cáo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa: Bị cáo kháng cáo trong hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị cáo lần thứ 02 (xét xử vào các ngày 05/9/2023 và 20/9/2023), nhưng bị cáo vắng mặt không có lý do nên thống nhất với Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt bị cáo. Với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử bị cáo mức án 07 (bảy) năm tù là đúng. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử đánh giá các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng pháp luật.

Đơn kháng cáo của các bị cáo làm trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Tòa án đã triệu tập bị cáo để xét xử trong các ngày 05/9/2023 và 20/9/2023 nhưng bị cáo đều vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo.

[2] Về nội dung vụ án:

Khoảng 23 giờ ngày 15/7/2022, tại quán Karaoke “Ruby Light”, địa chỉ: khu phố P, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Thanh H, Huỳnh Phát T, Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Thị Hồng L đã thực hiện hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Đến 01 giờ 10 phút ngày 16/7/2022, các bị cáo đang sử dụng ma túy thì bị bắt quả tang.

Như vậy đã đủ cơ sở khẳng định cấp sơ thẩm áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hồng L 07 (bảy) năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.

[3] Về nội dung kháng cáo:

Đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Hồng L xin giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy:

Bị cáo phạm tội vào khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự với khung hình phạt có mức án từ 7 năm đến 15 năm, thuộc trường hợp rất nghiêm trọng. Cấp sơ thẩm đã xem xét tất cả các tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, chưa có tiền án, tiền sự, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, ông ngoại bị cáo có công với cách mạng, áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử bị cáo Nguyễn Thị Hồng L mức án 7 năm tù, là mức khởi điểm của khung hình phạt. Mức án trên là không nặng, bị cáo không đủ điều kiện để xét xử dưới khung hình phạt cũng như cho hưởng án treo. Do đó, kháng cáo bị cáo không được chấp nhận, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Hồng L không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Hồng L, giữ nguyên bản án sơ thẩm 69/2022/HS-ST ngày 14/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; Điều 17; Điều 38; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hồng L mức án 07 (bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, nhưng được trừ đi thời gian bị giam giữ trước từ ngày 16/7/2022 đến ngày 25/7/2022.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Thị Hồng L phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 404/2023/HS-PT

Số hiệu:404/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về