Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 38/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DUY TIÊN - HÀ N

BẢN ÁN 38/2022/HS-ST NGÀY 29/04/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 26/2022/HSST ngày 21 tháng 3 năm 2022, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2022 đối với:

* Các bị cáo:

1/ Đinh Thanh Q, sinh năm 1998; nơi cư trú: TDP N, phường T, thị xã D, tỉnh Hà N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Đinh Văn C và bà Vũ Thị G; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 21/10/2021, đến ngày 30/10/2021, chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà N; có mặt.

2/ Nguyễn Văn N, sinh năm 1997; nơi cư trú: Tiểu khu Đ thị trấn P, huyện P, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị N; vợ: Đàm Thị N, con: Có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 21/10/2021, đến ngày 30/10/2021, chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà N; có mặt.

3/ Nguyễn Quốc H, sinh năm 1995; nơi cư trú: Tổ a, phường B, thành phố T, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Nguyễn Quốc T và bà Lê Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 21/10/2021, đến ngày 30/10/2021, chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà N; có mặt.

4/ Đàm Văn D, sinh năm 1998; nơi cư trú: Thôn V, xã Y, thành phố T, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Đàm Văn D và bà Đinh Thị C; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 10/6/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Ninh Bình, xử phạt 23.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”; bị bắt tạm giữ từ ngày 21/10/2021, đến ngày 30/10/2021, chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà N; có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Bàn Văn T, sinh ngày 15/11/2005, nơi cư trú: Thôn Q, xã C, huyện Y, tỉnh Yên Bái; người đại diện là bà Nguyễn Thị Kim O - Bí thư Đoàn thanh niên phường Hòa Mạc, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà N, vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1988, vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 21/10/2021, tổ công tác Công an thị xã Duy Tiên phối hợp cùng Công an phường B kiểm tra hành chính dãy phòng trọ của gia đình anh Nguyễn Văn T ở tổ dân phố G, phường B, thị xã D phát hiện tại phòng trọ của Đinh Thanh Q, Nguyễn Văn N, Nguyễn Quốc H cùng thuê trọ, các đối tượng Q, N, H, Đàm Văn D, Bàn Văn T có nhiều biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản vụ việc, thu giữ vật chứng và đưa các đối tượng về trụ sở làm việc.

Vật chứng thu giữ: Các đối tượng tự giác giao nộp: 01 đĩa xứ màu trắng hình tròn, trên mặt đĩa có 01 ống hút được quấn bằng tờ tiền mệnh giá 2000 đồng, được cố định bằng vỏ đầu lọc thuốc lá; 01 thẻ nhựa ngân hàng mang tên Nguyễn Văn Tr. Tất cả đều bám dính chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy. Bên dưới đĩa xứ có vết hơ ám khói màu đen được niêm phong trong phong bì ký hiệu TG01; 01 vỏ chai nhựa màu trắng, không có nắp chai, phần thân chai có đục thủng một lỗ hình tròn; 01 bật lửa ga màu đỏ, còn ga; 02 ống thủy tinh màu trắng gấp khúc hình chữ U. 02 đoạn ống nhựa màu H, một đầu dán kín, một đầu cắt vát. Các đối tượng khai nhận đoạn ống nhựa màu H là đựng ma túy đá, đã được cắt ra và lấy ma túy sử dụng. Tất cả 02 đoạn ống thủy tinh và 02 đoạn ống nhựa màu H được niêm phong trong phong bì ký hiệu TG02.

Thu giữ của Nguyễn Văn N: 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn N; 01 di động Iphone 6S, bên trong lắp 01 sim Viettel. Thu giữ của Nguyễn Quốc H: 01 Căn cước công dân mang tên Nguyễn Quốc H; 01 di động SAMSUNG, trong điện thoại được lắp 02 sim. Thu giữ của Đàm Văn D: 01 giấy phép lái xe mang tên Đàm Văn D; 01 di động Iphone 6S, trong điện thoại lắp 01 sim. Khám xét khẩn cấp chỗ ở, đồ vật của Đinh Thanh Q, Nguyễn Văn N, Nguyễn Quốc H không thu giữ đồ vật tài liệu gì liên quan.

Tiến hành xét nghiệm xác định chất ma túy đối với Đinh Thanh Q, Nguyễn Văn N, Nguyễn Quốc H, Đàm Văn D và Bàn Văn T, kết quả: Tất cả đều D tích với chất ma túy MET.

Tại bản kết luận giám định số 222/PC09 - MT ngày 26/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà N, kết luận: 01 đĩa sứ màu trắng hình tròn, có hoa văn; 01 thẻ nhựa cứng màu xanh có in chữ Viettel Pay mang tên NGUYEN VAN TR; 01 tờ tiền mệnh giá 2000đ được giữ cố định bằng 01 vỏ đầu lọc thuốc lá trong phong bì ký hiệu TG01 gửi giám định có bám dính ma túy loại Ketamine; 02 đoạn ống thủy tinh một đầu gấp khúc; 02 đoạn ống nhựa màu tím trong phong bì ký hiệu TG02 có bám dính ma túy loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 20/10/2021, tại phòng trọ của Đinh Thanh Q, Nguyễn Văn N, Nguyễn Quốc H ở tổ dân phố G, phường B, thị xã D, Q nói với N: “Có tiền thì làm tý, tối bốc hàng cho đỡ mệt”, ý của Q là rủ N mua ít ma túy đá về sử dụng để tối đi bốc hàng cho đỡ mệt, N đồng ý. Khoảng 15 phút sau, Nguyễn Đức V - SN 1999 ở TDP G, phường B, thị xã D đi đến phòng Q chơi, sau đó V đi ra ngoài nghe điện thoại. Lúc này, N và Q bàn bạc thống nhất nhờ V mua hộ ma túy đá để sử dụng. Sau đó, N ra ngoài nói với V “Mua hộ anh ba trăm nghìn đồng”, ý của N là nhờ V mua cho 300.000 đồng ma túy đá để mọi người cùng sử dụng. N không đưa tiền cho V, N định sẽ trừ vào số tiền 3.400.000 đồng mà V nợ N trước đó.

Khoảng 20 giờ ngày 20/10/2021 Q gọi điện rồi điều khiển xe mô tô đi đón Bàn Văn T đến phòng trọ của Q chơi. Tại đây Q, N nói với H và T góp tiền mua ma túy để sử dụng, mọi người đồng ý. Khoảng 21 giờ cùng ngày, V điều khiển xe mô tô đến cửa phòng của Q rồi V gọi “N ơi”, H nghe tiếng V gọi nên H nhìn qua khe cửa thấy V đứng ngoài cửa phòng trọ ném qua khe cửa vào trong phòng một đoạn ống nhựa màu tím hàn kín hai đầu, H biết ống này chứa ma túy đá nên nhặt chiếc ống này lên, ném về chỗ Q và nói: “V nó đưa này”, Q hiểu ý là V đưa cho ma túy để sử dụng. Khi N đi từ trong nhà vệ sinh ra thì Q nói “V nó vừa mang đến này”, N hiểu ý là V vừa mang ma túy đến. Sau đó, Q lấy chiếc bóng đèn huỳnh quang hình chữ “U” đập vỡ một ống thủy tinh rồi mang đi rửa sạch, tiếp đó Q lấy một chiếc chai nhựa, đục một lỗ nhỏ ở thân chai rồi lấy giấy ăn quấn vào đầu thẳng của ống thủy tinh và quấn vào một đầu ống nhựa rồi ghép lại với nhau, đầu còn lại của ống nhựa Q quấn giấy vệ sinh và gắn với lỗ của chiếc chai nhựa mà Q đã đục. Q đổ nước vào chai rồi dùng dao lam cắt vát một đầu ống nhựa, đổ ma túy đá vào ống thủy tinh rồi bảo T lấy cho chiếc bật lửa. T đi ra khu vực bếp lấy bật lửa đưa cho Q. Sau khi chuẩn bị xong, Q châm lửa hơ và hút ma túy đá đầu tiên rồi lần lượt N, H, T cùng nhau sử dụng. Khi thấy ma túy đá trong chai gần hết thì Q nói với mọi người là phần Đàm Văn D một ít do trước đó Q đã rủ D đến phòng trọ của Q để sử dụng ma túy. Khoảng 23 giờ cùng ngày, D đến phòng trọ của Q thì thấy mọi người đang sử dụng ma túy. D liền nói với Q “Có người cho tôi ít ma túy ke, tôi không dùng thì cho bạn”, Q trả lời “Bạn không dùng thì cho tôi, để tôi sử dụng”, D lấy trong túi quần ra một cục giấy bạc màu trắng bên trong chứa ma túy ke đưa cho Q. D ngồi xuống sử dụng hai hơi ma túy đá cùng mọi người rồi đi ra ngoài. Một lúc sau, sử dụng hết ma túy đá, Q tiếp tục đi lấy đĩa ở chạn bát và nói với mọi người: “Ai có tiền giấy và thẻ ngân hàng không cho tôi mượn” ý của Q là mượn chiếc thẻ cứng để xào ma túy ke và tiền giấy để làm ống hút sử dụng ma túy. Thấy vậy N nói: “Anh có đây” rồi N lấy trong ví của mình một chiếc thẻ nhựa màu xanh in chữ Viettel Pay và tờ tiền 2000đ đưa cho Q. Qúy cuộn tròn tờ tiền 2000đ lại và cố định bằng vỏ đầu lọc thuốc lá để làm ống hút ma túy. Sau đó, Q đổ ma túy ke ra đĩa, dùng bật lửa hơ ở đáy đĩa khoảng hai phút cho ma túy ke nóng rồi dùng thẻ cứng xào ke. Sau khi xào xong, Qúy, N, H lần lượt sử dụng hết số ma túy ke trên, còn T lúc này ngủ tại phòng không sử dụng ma túy nữa. Khoảng 05 giờ sáng ngày 21/10/2021, D về ngủ tại phòng trọ của Q. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 21/10/2021, lực lượng Công an kiểm tra phòng trọ, phát hiện Q, N, H, D, T đều có biểu hiệu sử dụng trái phép chất ma túy nên tiến hành lập biên bản, thu giữ toàn bộ tang vật.

Cáo trạng số 30/CT-VKS-DT ngày 21/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duy Tiên truy tố các bị cáo Đinh Thanh Q, Nguyễn Văn N, Ngô Quốc H về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự; Đàm Văn D về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng: điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với Đinh Thanh Q, Nguyễn Văn N, Nguyễn Quốc H. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với Đàm Văn D. Riêng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với Nguyễn Văn N. Xử phạt Đinh Thanh Q từ 8 năm 6 tháng đến 9 năm tù; xử phạt Nguyễn Quốc H từ 8 năm đến 8 năm 6 tháng tù; xử phạt Nguyễn Văn N từ 7 năm 6 tháng đến 8 năm tù; xử phạt Đàm Văn D từ 8 năm 6 tháng đến 9 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo. Về vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy: 01 đĩa sứ; 01 thẻ nhựa; 02 ống thủy tinh; 02 đoạn ống nhựa; 01 vỏ chai nhựa, 01 bật lửa ga. Tịch thu sung ngân sách nhà nước: tờ tiền 2.000đ. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn N: 01 chứng minh nhân dân; 01 điện thoại Iphone 6s. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Quốc H: 01 thẻ căn cước; 01 điện thoại Samsung. Trả lại bị cáo Đàm Văn D: 01 Giấy phép lái xe; 01 điện thoại Iphone 6s màu trắng xám và tuyên án phí đối với các bị cáo.

Các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt, ngoài ra không tranh luận gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Duy Tiên và Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duy Tiên và Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, HĐXX xác định các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, HĐXX có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 19 giờ ngày 20/10/2021, tại phòng trọ của Đinh Thanh Q, Nguyễn Văn N, Nguyễn Quốc H thuê ở tổ dân phố G, phường B, thị xã D, tỉnh Hà N. Đinh Thanh Q, Nguyễn Văn N, Nguyễn Quốc H, Bàn Văn T (lúc này mới 15 tuổi 11 tháng 05 ngày) chung tiền mua ma túy và tổ chức cho nhau sử dụng trái phép chất ma túy.

Đến khoảng 23h ngày 20/10/2021, Đàm Văn D đến thấy Q, N, H đang sử dụng ma túy; D đưa cho Q 01 gói ma túy ke, sau đó D ngồi xuống sử dụng hai hơi ma túy rồi đi ra ngoài.

Hành vi nêu trên của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, hành vi của các bị cáo Đinh Thanh Q, Nguyễn Văn N, Nguyễn Quốc H đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo Đàm Văn D đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét vai trò của các bị cáo: Vụ án này thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn; Bị cáo Q là người rủ rê, chuẩn bị dụng cụ sử dụng ma túy nên giữ vai trò đầu; N, H, D giữ vai trò đồng phạm.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo D có nhân thân xấu, các bị cáo còn lại có nhân thân tốt; bị cáo D phạm tội trong khi đang có tiền án nên phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ này quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo N có hoàn cảnh gia đình khó khăn được địa phương xác nhận nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt: Xét tính chất hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra là nghiêm trọng vì thế cần phải cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Do các bị cáo là người không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

[6] Về các hành vi khác:

Đối với Bàn Văn T có hành vi đưa cho Q chiếc bật lửa để Q chuẩn bị cho việc sử dụng ma túy đá, hành vi này đã cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, tuy nhiên thời điểm này T mới 15 tuổi 11 tháng 5 ngày nên chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Công an thị xã Duy Tiên đã xử phạt vi phạm hành chính theo quy định.

Đối với Nguyễn Đức V đã cung cấp chất ma túy cho N và các đối tượng. Cơ quan CSĐT Công an thị xã Duy Tiên đã ra Quyết định khởi tố bị can và Lệnh bắt bị can để tạm giam nhưng chưa bắt được nên đã tách vụ án hình sự, tách hành vi của Nguyễn Đức V để tiếp tục điều tra xác minh.

[7] Về nguồn gốc ma túy: Đối với số ma túy Ke, D khai được một người bạn tên là N ở Hải D cho nhưng không rõ tên tuổi địa chỉ nên không có căn cứ xác minh xử lý. Đối với số ma túy đá, do Nguyễn Đức V bỏ trốn nên chưa có căn cứ xác định nguồn gốc.

[8] Về xử lý vật chứng vụ án:

Đối với: 01 đĩa sứ; 01 thẻ nhựa; 02 ống thủy tinh; 02 đoạn ống nhựa; 01 vỏ chai nhựa, 01 bật lửa ga là công cụ phạm tội nên tịch thu cho tiêu hủy;

Đối với tờ tiền 2.000đ cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Đối với 01 chứng minh nhân dân; 01 điện thoại Iphone 6s thu giữ của Nguyễn Văn N không liên quan đến tội phạm cần trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 thẻ căn cước; 01 điện thoại Samsung thu giữ của Nguyễn Quốc H không liên quan đến tội phạm cần trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 Giấy phép lái xe; 01 điện thoại Iphone 6s màu trắng xám thu giữ của Đàm Văn D không liên quan đến tội phạm cần trả lại cho bị cáo.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định [10] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình sự: Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với Đinh Thanh Q, Nguyễn Văn N, Nguyễn Quốc H. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với Đàm Văn D. Riêng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với Nguyễn Văn N.

Tuyên bố: Các bị cáo Đinh Thanh Q, Nguyễn Văn N, Nguyễn Quốc H, Đàm Văn D phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”;

Xử phạt:

+ Đinh Thanh Q 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/10/2021.

+ Nguyễn Quốc H 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/10/2021.

+ Nguyễn Văn N 07 (Bẩy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/10/2021.

+ Đàm Văn D 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/10/2021.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu hủy: 01 đĩa sứ; 01 thẻ nhựa; 02 ống thủy tinh; 02 đoạn ống nhựa; 01 vỏ chai nhựa, 01 bật lửa ga.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước: tờ tiền 2.000đ.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn N: 01 chứng minh nhân dân; 01 điện thoại Iphone 6s.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Quốc H: 01 thẻ căn cước; 01 điện thoại Samsung.

Trả lại bị cáo Đàm Văn D: 01 Giấy phép lái xe; 01 điện thoại Iphone 6s màu trắng xám.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội các bị cáo Đinh Thanh Q, Nguyễn Văn N, Nguyễn Quốc H, Đàm Văn D mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng).

Báo cho bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người đại diện vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được T hành theo quy định tại Điều 2 Luật T hành án dân sự thì người được T hành án dân sự, người phải T hành án dân sự có quyền thỏa thuận T hành án, quyền yêu cầu T hành án, tự nguyện T hành án hoặc bị cưỡng chế T hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật T hành án dân sự; thời hiệu T hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật T hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

683
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 38/2022/HS-ST

Số hiệu:38/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Duy Tiên - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về