TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 331/2023/HS-PT NGÀY 15/05/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15/5/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 56/2022/TLPT-HS ngày 30/01/2023 do có kháng cáo của các bị cáo Cao Văn D và Phạm Văn H1 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 62/2022/HS-ST ngày 09/12/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.
* Các bị cáo có kháng cáo:
1.Cao Văn D, tên gọi khác: Không; sinh năm 1985 tại Hải Dương;
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn HX 3, Xã QT, thành phố HD, tỉnh Hải Dương; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Cao Văn D1, sinh năm 1960 và bà Phạm Thị H, sinh năm 1964; có vợ là: Trần Thị Lan P, sinh năm 1988 và có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 01/7/2022 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương; có mặt.
2. Phạm Văn H1, tên gọi khác: Không; sinh năm 1986 tại Hải Dương;
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn ĐX, xã UH, huyện NG, tỉnh Hải Dương; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Phạm Hùng C, sinh năm 1947 và bà Đỗ Thị C1, sinh năm 1947; có vợ là Nguyễn Thị H2, sinh năm 1998 và có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 01/7/2022 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương; có mặt.
* Người bào chữa cho các bị cáo: Ông Bùi Đình S, Luật sư Văn phòng luật sư PS, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Hưng Yên, có đơn xin xét xử vắng mặt và gửi bài bào chữa.
* Ngoài ra còn có: Người đại diện hợp pháp cho bị hại là ông Đặng văn T, nhưng không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ ngày 14/6/2022, Cao Văn D gọi điện rủ Phạm Văn H1 đến quán Karaoke TT của vợ chồng chị Trịnh Thị Cẩm L và anh Nguyễn Văn Q tại thôn HX 1, xã QT, thành phố HD, tỉnh Hải Dương để hát Karaoke và sử dụng ma túy tổng hợp, H1 đồng ý. Cả hai thống nhất rủ thêm anh Vũ Đức Đ, sinh năm: 1986, trú tại: Khu QT, pH PT, thị xã KM, tỉnh Hải Dương đi cùng. H1 gọi điện rủ anh Đ đến quán Karaoke TT để hát Karaoke, anh Đ đồng ý. Đến 22 giờ 23 phút cùng ngày, D điều khiển xe ôtô nhãn hiệu Toyota Wigo, biển số 34A - 327.89 (xe mượn của anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1988, trú tại: Xã QT, thành phố HD) cất giấu trong túi quần 02 viên ma túy tổng hợp màu xanh, hình tam giác đến quán Karaoke TT. Tại đây, D thuê phòng hát P02 để hát, chị L bảo nhân viên là chị Đặng Thị Kim C, sinh năm 2003, trú tại: Thôn VA, xã VTT, huyện CP, tỉnh An Giang phục vụ rót bia, bấm bài hát cho D. Đến khoảng 22 giờ 45 phút cùng ngày, H1 điều khiển xe ôtô nhãn hiệu Toyota Vios biển số 34A - 482.11 đến Phòng hát P02 của quán Karaoke TT gặp D. Trong khi hát, D nói với H1 có mang theo 02 viên ma túy tổng hợp để sử dụng, H1 thấy ít nên bảo D để H1 đi mua thêm ma túy tổng hợp. Sau đó, H1 gọi điện thoại thông qua ứng dụng Zalo trên điện thoại đi động cho Phạm Tuấn A, sinh năm 2000, trú tại: Thôn HX, Xã QT, thành phố HD nhờ mua hộ 04 viên ma túy tổng hợp, Tuấn A báo giá 1.800.000 đồng (450.000 đồng/viên), hẹn giao ma túy tại cổng thôn ĐL, Xã QT, thành phố HD. H1 điều khiển xe ôtô đến điểm hẹn, được 01 người đàn ông không quen biết giao cho 04 viên ma túy tổng hợp, H1 trả người này 1.900.000 đồng (gồm 1.800.000 đồng tiền mua ma túy và 100.000 đồng tiền công vận chuyển). Trong khi H1 đi mua ma túy, D và chị C chuyển từ phòng hát P02 đến phòng P03. Khi H1 đến quán Karaoke TT, chị L bảo nhân viên là chị Trần Thị Mộng T1, sinh năm 1992, trú tại: Khóm 2, PH 8, thành phố CM, tỉnh Cà Mau cùng H1 đến phòng P03 để phục vụ. Đến khoảng 00 giờ 10 phút ngày 15/6/2022, anh Vũ Đức Đ đến phòng P03 của quán Karaoke TT, chị L bảo nhân viên là chị Đinh Thị H3 (tên gọi khác là T2), sinh năm: 2004, trú tại: Khu 1, xã ML, huyện YL, tỉnh Phú Thọ đến phòng P03 để phục vụ. Trong khi hát Karaoke, D bảo H1 đưa cho D ma túy tổng hợp vừa mua, H1 lấy trong túi quần ra gói giấy ăn bọc 04 viên ma túy tổng hợp hình chữ nhật, màu hồng đưa cho D, D lấy 03 viên bẻ mỗi viên làm đôi, đưa cho H1, anh Đ, chị C, chị T và chị H3 mỗi người nửa viên ma túy để sử dụng bằng hình thức uống trực tiếp và tương tự D cũng sử dụng nửa viên còn lại, còn 01 viên D để trong gói giấy ăn trên mặt bàn và đã được sử dụng hết. 06 người trong phòng vừa sử dụng ma túy tổng hợp, vừa nghe nhạc. Đến khoảng 03 giờ cùng ngày, H1 bảo D lấy ra 02 viên ma túy tổng hợp mang theo để sử dụng, D lấy trong túi quần ra 02 viên ma túy tổng hợp đưa cho H1, H1 bẻ nhỏ ma túy tổng hợp sử dụng 01 phần và đưa cho chị C và chị H3 mỗi người một phần để sử dụng, chị C cho vào miệng nuốt, còn chị H3 vứt vào bồn vệ sinh xả nước, số còn lại H1 để trên mặt bàn, mọi người tự lấy sử dụng hết. Đến khoảng 03 giờ 30 phút cùng ngày, chị C có biểu hiện hoảng loạn, mệt mỏi và nằm ngủ tại ghế của phòng hát. Đến khoảng 06 giờ cùng ngày, anh Đ phát hiện cơ thể chị C đã co cứng, không còn hô hấp nên gọi mọi người tập trung sơ cứu, H1 điều khiển xe ô tô chở anh Đ cùng chị Châu Ngọc H4, sinh năm 1974, trú tại: Thị trấn T11, huyện AM, tỉnh Kiên Giang là nhân viên quét dọn quán đưa chị C đến cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương. Tại đây, Bác sỹ của Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương xác định chị C đã tử vong trước khi vào Bệnh viện.
Tại Kết luận giám định số 198 ngày 12/7/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương xác định nguyên nhân tử vong của chị Đặng Thị Kim C là suy hô hấp, tuần hoàn cấp (do sốc ma túy).
Sau khi xảy ra sự việc, D và H1 cùng khắc phục hậu quả cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 150.000.000 đồng, đại diện bị hại xác nhận đã nhận số tiền trên, không yêu cầu các bị cáo bồi thường thêm khoản tiền nào khác và đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.
Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 62/2022/HS-ST, ngày 09/12/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã quyết định: Căn cứ điểm a khoản 3 và khoản 5 Điều 255; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; khoản 1 Điều 54; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban TH vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố các bị cáo Cao Văn D, Phạm Văn H1 phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Cao Văn D 10 (mười) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/7/2022.
Xử phạt bị cáo Phạm Văn H1 09 (chín) năm, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/7/2022.
Phạt bị cáo Cao Văn D và Phạm Văn H1 mỗi bị cáo 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.
Ngoài ra, bản án còn xử lý vật chứng, buộc nghĩa vụ chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12/12/2022 bị cáo Cao Văn D và Phạm Văn H1 đều có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo có kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Các bị cáo trình bày: Cả hai bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết; nhưng cho rằng mức hình phạt là quá nghiêm khắc; hiện tại các bị cáo hết sức hối hận nên đã bồi thường cho gia đình bị hại tổng số tiền 150.000.000 đồng, sau khi xét xử sơ thẩm đã tiếp tục tác động với gia đình nộp số tiền phạt bổ sung mỗi bị cáo là 50.000.000 đồng, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu: Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, hành vi phạm tội của các bị cáo thấy cấp sơ thẩm xét xử, quy kết các bị cáo về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật, các bị cáo không bị oan. Khi xét xử Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, hành vi phạm tội của các bị cáo, đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, nên xử phạt cả hai bị cáo mức án như bản án sơ thẩm là phù hợp. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm các bị cáo đã tác động với gia đình nộp số tiền phạt bổ sung mỗi bị cáo là 50.000.000 đồng, thể hiện cả hai bị cáo hết sức ăn năn hối cải, đây là những tình tiết giảm nhẹ mới tại cấp phúc thẩm, nên có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho cả hai bị cáo.
Vì vậy, đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Cao Văn D, Phạm Văn H1 sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho cả hai bị cáo với mức 02 năm tù.
* Người bào chữa có luận cứ bào chữa thể hiện: Không có ý kiến tranh luận gì về tội danh, điều luật áp dụng; chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các bị cáo đều có nhân thân tốt, quá trình điều tra và tại các phiên tòa khai báo thành khẩn và thật sự tỏ ra ăn năn hối cải; gia đình các bị cáo đều có công, đều có hoàn cảnh khó khăn; đã bồi thường cho bị hại 150.000.000 đồng; cả hai bị cáo đều là lao động chính trong gia đình; các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Cao Văn D và Phạm Văn H1 thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã mô tả và quy kết. Đối chiếu lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay thấy phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và tại các phiên tòa; phù hợp với lời khai của những người làm chứng, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phù hợp với các kết luận giám định. Do đó, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 22 giờ ngày 14/6/2022, Cao Văn D đã rủ Phạm Văn H1 đến quán hát Karaoke TT, địa chỉ: Thôn HX 1, xã QT, thành phố HD, tỉnh Hải Dương để hát và sử dụng ma túy, Phạm Văn H1 đồng ý. Cao Văn D chuẩn bị 02 viên ma túy tổng hợp, khi đến nơi sau khi nghe D bảo có 02 viên ma túy, do sợ thiếu nên H1 đi mua thêm 04 viên ma túy tổng hợp. Sau đó, D và H1 cùng sử dụng ma túy và tổ chức cho 04 người khác sử dụng là Vũ Đức Đ, Trần Thị Mộng T1, Đinh Thị H3, Đặng Thị Kim C tại phòng hát P03 của quán Karaoke TT cùng sử dụng ma túy. Do sử dụng ma túy nên chị Đặng Thị Kim C có biểu hiện sốc ma túy, toát mồ hôi, co giật, cứng cơ, dần mất ý thức. Đến khoảng 6 giờ 30 ngày 15/6/2022 được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương nhưng đã tử vong, nguyên nhân do sốc ma tuý. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; Tòa án cấp sơ thẩm quy kết cả hai bị cáo với tội danh nêu trên theo quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, các bị cáo không bị oan.
[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Hậu quả sau khi sử dụng chất ma túy thì Đặng Thị Kim C đã bị sốc thuốc dẫn đến tử vong. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết các bị cáo theo điểm a khoản 3 Điều 255 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[3] Xét kháng cáo của các bị cáo: Hội đồng xét xử đồng tình với đánh giá, nhận xét của Tòa án cấp sơ thẩm. Cụ thể, trong vụ án này mặc dù bị cáo Cao Văn D với vai trò là người khởi xướng, rủ rê bị cáo H1, cũng như đã chuẩn bị ma túy sau đó chuẩn bị địa điểm, mời mọi người cùng sử dụng. Tuy nhiên, bị cáo Phạm Văn H1 sau khi nghe bị cáo D rủ rê biết được hành vi đó là vi phạm pháp luật, nhưng không những không can ngăn mà còn đồng tình ủng hộ; sau khi bị cáo D gọi điện cho anh Đ không được thì chính bị cáo đã trực tiếp gọi điện cho anh Đ để rủ anh Đ cùng đến để sử dụng ma túy; khi biết D chỉ có 02 viên ma túy thì bị cáo đã chủ động đi mua thêm 04 viên nữa để cho mọi người sử dụng; bị cáo là người giúp sức cho bị cáo D, nhưng là người thực hành với vai trò tích cực, nên xét về tổng thể thì cả hai bị cáo đều có vai trò ngang nhau. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; các bị cáo đã cùng gia đình bồi thường cho đại diện bị hại số tiền 150.000.000 đồng và được đại diện bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt; bị cáo D có bố đẻ là Thương binh loại A, thương tật 4/4 (25%), được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến; bị cáo H1 có bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sỹ giải phóng, nên các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy mục đích chính là để giải trí, không nhằm mục đích lợi nhuận; những người sử dụng chất ma túy đều tự nguyện; năm 2003, bị cáo H1 có hành động cứu giúp một người bị tai nạn đuối nước được gia đình nạn nhân và chính quyền địa phương xác nhận. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xử áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt đối với hai bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, cả hai bị cáo đều tác động với gia đình để nộp số tiền phạt bổ sung mỗi bị cáo 50.000.000 đồng; chứng tỏ các bị cáo đã thật sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Để thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội thật sự biết ăn năn hối cải, nên cần xem xét ghi nhận để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị chấp nhận kháng cáo để giảm nhẹ hình phạt cho cả hai bị cáo là có căn cứ. Do đó, có căn cứ chấp nhận kháng cáo của cả hai bị cáo.
[4] Về hình phạt bổ sung: Gia đình cả hai bị cáo đã tự nộp mỗi gia đình số tiền 50.000.000 đồng để thi hành hình phạt bổ sung theo bản án sơ thẩm, nên cần ghi nhận cho cả hai bị cáo.
[5] Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Cao Văn D và Phạm Văn H1; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 62/2022/HS-ST ngày 09/12/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương;
Căn cứ điểm a khoản 3 và khoản 5 Điều 255, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58, khoản 1 Điều 54, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban TH vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên bố các bị cáo Cao Văn D, Phạm Văn H1 phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”;
Xử phạt bị cáo Cao Văn D 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/7/2022;
Xử phạt bị cáo Phạm Văn H1 07 (bảy) năm, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/7/2022.
Về hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Cao Văn D và Phạm Văn H1 mỗi bị cáo 50.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước. Ghi nhận bị cáo Cao Văn D và Phạm Văn H1 đã nộp số tiền này theo các biên lai số 0001655 và 0001656, cùng ngày 15/5/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương, xác nhận cả hai bị cáo đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.
Về án phí: Bị cáo Cao Văn D, Phạm Văn H1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 62/2022/HS-ST ngày 09/12/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 331/2023/HS-PT
Số hiệu: | 331/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về