Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 289/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 289/2023/HS-PT NGÀY 25/07/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 155/2023/TLPT-HS ngày 04 tháng 4 năm 2023 đối với các bị cáo Từ Nguyên V, Trần Thị Kiều O về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”. Do Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2023/HS-ST ngày 20 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định bị kháng cáo.

1. Từ Nguyên V, sinh năm: 1983 tại Bình Định; nơi cư trú: Thôn Q, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; con ông: Từ Văn T, sinh năm 1958 và bà Trần Thị Mỹ H, sinh năm 1963; có vợ: Giáp Thị Tường V1, sinh năm: 1988, con: Có 03 người, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 21/8/2000 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xử phạt 04 tháng tù giam về tội: “Cố ý gây thương tích”; Ngày 25/02/2011 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xử phạt 06 tháng tù giam về tội: “Đánh bạc”. Ngày 08/4/2022, bị cáo ra đầu thú về hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày 06/7/2022- Vắng mặt.

2. Trần Thị Kiều O, sinh năm: 1996 tại Hà Nam; nơi cư trú: Tổ A, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; con ông: Trần Văn B (đã chết) và bà Phạm Thị H1, sinh năm 1960; chồng: Lê Văn T1, sinh năm 1993, con: Có 01 người sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 24/01/2022 đến ngày 18/3/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh- Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 24/01/2022, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bình Định phối hợp cùng với Công an thành phố Q, tiến hành kiểm tra hành chính cơ sở K1 ở số G đường L, phường L, thành phố Q, Bình Định, phát hiện tại Phòng T có 08 đối tượng gồm: Trần Văn M, Trần Thị Kiều O, Lê Thanh T2, Nguyễn Đình T3, Nguyễn Đắc T4, Nguyễn Thị T5, Rơ Chăm T6, Lê Thị Hồng K. Qua kiểm tra tổ công tác phát hiện trên bàn tại vị trí ngồi của Trần Thị Kiều O có 01 đĩa sứ màu trắng có chứa các chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy, 02 đoạn ống hút nhựa, 01 thẻ nhựa màu đen, tổ công tác đã tiến hành lập biên bản thu giữ, niêm phong theo quy định.

Quá trình điều tra, xác định: Sáng ngày 24/01/2022, Nguyễn Đình T3 cùng với Lê Thanh T2 uống cà phê tại quán S ở phường B, thị xã A, tỉnh Bình Định. Sau đó, T3 gọi điện thoại cho Từ Nguyên V đến quán ngồi chơi. Tại đây, T3 rủ T2 và V xuống Q chơi tìm quán hát karaoke, mọi chi phí để T3 lo thì T2 và V đồng ý, tiếp đến T3 còn gọi cho Nguyễn Đắc T4 xuống Q chơi nhưng T4 nói bận việc sẽ đến sau, đồng thời T3 nói với V tìm mua ma túy và đặt phòng hát karaoke để sử dụng ma túy (T2 không nghe thấy việc này), V đồng ý. Lúc này, T2 gọi điện rủ Nguyễn Thị T5 đi hát karaoke, do T5 đang đi cùng Rơ Chăm T6 nên T5 hỏi T2 cho T6 đi cùng và được T2 đồng ý.

Sau đó, T3, T2 thuê xe taxi đến phòng trọ đón T5 và T6, còn V chạy xe máy về nhà người quen ở cầu B, Tuy P để cất xe chờ T3 đến đón. V gọi điện cho Trần Văn M, nhờ M hỏi mua giùm ma túy để sử dụng, đặt phòng tại quán K2 và gọi cho V một tiếp viên nữ để phục vụ sử dụng ma túy, M đồng ý. Khoảng 11 giờ cùng ngày, T3, T2, T5, T6 đi xe đến đoạn cầu Bà D để đón V và cả nhóm cùng đi xuống thành phố Q. Trần Văn M sau khi nhận cuộc gọi từ V, nên gọi cho Trần Thị Kiều O (là gái bay) rủ O đi sử dụng ma túy và nhờ O đặt phòng trước ở quán K2, O đồng ý và M tiếp tục liên hệ gọi một người nam tên P1 để hỏi mua 05 viên thuốc lắc MDMA và nửa hộp năm Ketamine với giá 6.500.000đ hẹn giao ở trước quán K2. Khoảng 5 phút sau O gọi lại cho M nói cứ hỏi lấy phòng trước rồi O đến sau.

Khoảng 12 giờ cùng ngày, M đến quán K2 và được nhân viên bố trí vào phòng T, M vừa vào phòng thì O cũng đến quán vào phòng gặp M. Khoảng 10 phút sau, nhóm 05 người gồm: V, T3, T2, T5, T6 cũng vào phòng. Khi gặp V thì M nói với V đang chờ người đến giao ma túy và số tiền mua ma túy là 8.500.000đ (bao gồm cả tiền “boa” cho tiếp viên nữ). Lúc này, V đến nói T3 đưa tiền cho V để thanh toán thì T3 gọi cho Nguyễn Đắc T4 chuyển 10.000.000đ vào tài khoản của V (T4 không biết việc T3 nhờ chuyển tiền để V mua ma túy). Sau đó, T4 chuyển số tiền 10.000.000đ từ tài khoản Ngân hàng V2 của mình đến số tài khoản tại Ngân hàng M1 của V. Khi có tiền, V tiếp tục chuyển qua số tài khoản tại Ngân hàng B1 của M số tiền 8.500.000đ.

Khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, M nghe điện thoại rồi ra trước quán K2 gặp một người nam để nhận ma túy, theo M khai thì người bán ma túy cho M là Đặng Thanh P2, có số điện thoại 0935903388. Sau khi nhận ma túy, M đem số ma túy này vào phòng Thái P3 và đưa cho V, V lấy thuốc lắc chia đều ra cho mọi người sử dụng còn gói Ketamine thì đưa cho O ngồi bên cạnh đổ ra đĩa sứ trên bàn để “xào” và dùng thẻ nhựa tán mịn đưa mọi người trong phòng truyền tay nhau sử dụng ống hút có sẵn để hít chất Ketamine. Trong lúc đang sử dụng ma túy thấy M ngồi một mình nên nói O gọi thêm tiếp viên nữ đến ngồi với M và O để sử dụng ma túy cho vui. O gọi cho Lê Thị Hồng K đến phòng phục vụ khách “tiếp bay” cho M. Khoảng 14 giờ 00 phút, K vào phòng T ngồi bên cạnh M và cùng sử dụng ma túy. Tiếp đó, khoảng 14 giờ 30 phút có thêm Nguyễn Đắc T4 đến (do T3 gọi trước đó), thấy có ma túy nên T4 cũng tham gia sử dụng.

Khoảng 15 giờ 00 phút cùng ngày, V về trước và cho O 1.000.000đ tiền phục vụ “tiếp bay”. Còn lại M, T2, T3, T4, T5, T6, K tiếp tục sử dụng ma túy, O chưa sử dụng ma túy. Khi cả nhóm đang sử dụng thì đến 17h00 cùng ngày bị bắt quả tang và thu giữ số ma túy còn lại như đã nêu trên.

Ngày 27/01/2022 Phòng K3 Công an tỉnh Bình Định kết luận số ma túy thu được tại Phòng Thái Phi như sau: các hạt tinh thể màu trắng đựng bên trong 01 (một) gói ni lông, kích thước 4x8 centimet gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3881 gam là loại Ketamine.

Tại bản cáo trạng số 59/CT-VKS-P1 ngày 12/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định đã truy tố các bị cáo Từ Nguyên Vũ, Trần Văn Mạnh về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự; truy tố Trần Thị Kiều O về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 255 Bộ luật hình sự. Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã trả hồ sơ cho Viện kiểm sát yêu cầu truy tố Trần Thị Kiều O về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự nên đưa Quyết định đưa vụ án ra xét xử bị cáo Trần Thị Kiều O về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2023/HS-ST ngày 20 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã quyết định:

1. Tuyên bố: Các bị cáo Từ Nguyên V, Trần Thị Kiều O đồng phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

2. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS. Xử phạt: Bị cáo Từ Nguyên V 07 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam trước từ ngày 08.4.2022 đến ngày 05.7.2022.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS. Xử phạt bị cáo Trần Thị Kiều O 02 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 24.01.2022 đến ngày 17.3.2022.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý tang vật chứng, biện pháp tư pháp, án phí và công bố quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 24/02/2023, bị cáo Từ Nguyên V có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 01/3/2023, bị cáo Trần Thị Kiều O có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Từ Nguyên V vắng mặt, bị cáo Trần Thị Kiều O giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và khai nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết.

Đại diện Viện kiểm sát cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị HĐXX cấp phúc thẩm: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Từ Nguyên V, Trần Thị Kiều O và giữ y hình phạt của bản án sơ thẩm.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Thị Kiều O khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nhận định. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo Từ N V tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với lời khai của Trần Văn M, Lê Thanh T2, Nguyễn Đắc T4, Nguyễn Thị T5, Lê Thị Hồng K và Rơ Răm T7; phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang ngày 24/01/2022; phù hợp với Kết luận giám định ngày 27/01/2022 của Phòng K3 công an tỉnh Bình Định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử các bị cáo Từ Nguyên V, Trần Thị Kiều O; về tội “Tổ chức sử dụng trải phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Từ Nguyên V và khoản 1 Điều 255 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trần Thị Kiều O là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Tệ nạn ma túy là mối hiểm họa, gây nhức nhối cho toàn xã hội và gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội hiên nay; hành vi của các bị cáo mang tính chất nghiêm trọng: bị cáo Từ Nguyên V cùng tham gia tổ chức cho nhiều người sử dụng trái phép chất ma túy, bị cáo Trần Thị Kiều O rủ rê Lê Thị Hồng K tham gia sử dụng. Vì vậy, với tính chất vụ án, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tôi nêu trên; Tòa án cấp sơ thẩm, sau khi xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ: Khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải và bị cáo V sau khi phạm tội đã ra đầu thú , Quyết định xử phạt bị cáo Từ N V 07 năm tù, bị cáo Trần Thị Kiều O 02 năm tù là phù hợp và không nặng. Cho nên, kháng cáo của các bị cáo Từ Nguyên V, Trần Thị Kiều O không được chấp nhận.

[3] Do không chấp nhận kháng cáo nên các bị cáo Từ Nguyên V, Trần Thị Kiều O phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên cấp phúc thẩm không xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Từ Nguyên V, Trần Thị Kiều O và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Xử:

1. Tuyên bố: Các bị cáo Từ Nguyên V, Trần Thị Kiều O đồng phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

2. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS. Xử phạt: Bị cáo Từ Nguyên V 07 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam trước từ ngày 08.4.2022 đến ngày 05.7.2022.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS. Xử phạt bị cáo Trần Thị Kiều O 02 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 24.01.2022 đến ngày 17.3.2022.

Các quyết định về trách nhiệm hình sự của Trần Văn M, về phần xử lý vật chứng và án phí sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo Từ Nguyên V, và Trần Thị Kiều O; mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 289/2023/HS-PT

Số hiệu:289/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về