Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 234/2023/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 234/2023/HS-PT NGÀY 20/11/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 264/2023/TLPT-HS ngày 26 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Duy H. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2023/HS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Duy H, sinh năm 1998, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Tổ dân phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Nơi ở hiện tại: Thôn S, xã Bô, huyện L, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Duy M và bà Ngô Triều N; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam từ ngày 19/01/2023 đến nay. Hiện đang giam. Có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, trong vụ án còn có 03 bị cáo khác nhưng không có kháng cáo, không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 11/10/2022, sau khi dự đám cưới tại xã B, huyện L, tỉnh Đắk Lắk, Đặng Phương N1 và Nông Cao N2 đang đứng chờ xe taxi đến đón để đi về thì gặp Nguyễn Văn L, N1 rủ L đi ra thị trấn L, huyện L để nhậu và hát Karaoke nhưng L từ chối, sau đó N1 đi vào quán tạp hóa mua thuốc lá, thì N2 đến nói với L “bạn đi ra thị trấn L nhậu rồi hát Karaoke với mình đi”, L trả lời “hôm qua mới đi bay trên phố về còn mệt nên không đi đâu, trên người vẫn còn đồ đây” (đi bay tức là sử dụng ma túy, đồ tức là ma túy), N2 nói tiếp “đồ đâu, lấy ra xem”. L liền mở ví lấy ra 01 gói ma túy được gói trong tờ tiền mệnh giá 1.000 Đ và cầm trên đầu ngón tay phải để khoe thì N2 chộp lấy gói ma túy L đang cầm trên đầu ngón tay phải rồi đi ra xe taxi và nói “cho mình đi”. Lúc này, N1 cũng từ trong quán tạp hóa đi ra xe ôtô taxi, N2 đưa gói ma túy cho N1 và nói “em cất đồ đi” rồi cùng N1 lên xe ôtô taxi đi về thị trấn L, huyện L. Trên đường đi N2 nói với N1 “đồ hồi nãy lấy của L đâu rồi, đưa cho anh”, nghe vậy N1 lấy gói ma túy đưa cho N2, rồi N2 cất giấu gói ma túy trong túi quần phía sau.

Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, N2 và N1 đi đến quán Karaoke H thuộc tổ dân phố 1, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk để hát Karaoke và uống bia. Tại đây, N2 gọi điện qua mạng xã hội Facebook rủ Thái Doãn T đến hát cùng. T rủ Phan Doãn Đ đi cùng đến quán Karaoke H, T điều khiển xe môtô biển số đăng ký 47N1-X chở Đ đến quán Karaoke H thì thấy N1 và N2 đang đứng trước quán. Khi đến nơi, T nhắn tin qua mạng xã hội Facebook cho Nguyễn Duy H, với nội dung “Lên hải vân chơi bồ” để rủ H đến hát cùng. Sau khi nhận được tin nhắn của T, H vào phòng ngủ lấy 01 chai nhựa đựng cần sa khô và 01 chiếc kéo sắt cất vào trong túi quần bên phải rồi điều khiển xe môtô biển số đăng ký 47N1-X đến quán karaoke H.

Sau khi nhắn tin cho H, T cùng N1, N2, Đ thuê phòng hát VIP 4 tại quán karaoke H để ngồi hát và uống bia. Một lúc sau thì H đi vào phòng hát, H lấy 01 chai nhựa đựng cần sa đổ ra bàn và lấy 01 chiếc kéo được chuẩn bị sẵn cắt nhỏ cần sa rồi nhồi cần sa vào 01 điếu thuốc lá nhãn hiệu Caraven do H chuẩn bị, rồi lấy bật lửa đốt điếu thuốc lá để hút trực tiếp chất cần sa vào cơ thể, hút được vài hơi thì H đưa điếu thuốc lá có chứa cần sa cho N1 hút, N1 hút vài hơi thì đưa lại cho N2 hút hết điếu thuốc lá có chứa cần sa do H nhồi. Sau khi thấy H cắt và nhồi chất cần sa vào điếu thuốc lá, thì T lấy 01 điếu thuốc lá nhãn hiệu 555 trong gói thuốc của mình đưa cho H nhờ nhồi chất cần sa vào trong điếu thuốc 555 để sử dụng. H Đ ý và nhồi chất cần sa khô đã cắt vào 01 điếu thuốc lá nhãn hiệu 555 rồi đưa cho T sử dụng. T cầm điếu thuốc lá 555 đã được H nhồi chất cần sa rồi dùng 01 chiếc bật lửa chuẩn bị sẵn châm điếu thuốc lá có chứa cần sa để hút trực tiếp chất cần sa vào cơ thể, tiếp đó T đưa điếu thuốc lá 555 có chứa cần sa sang cho Đ hút, Đ cầm điếu thuốc lá hút trực tiếp chất cần sa vào người xong đưa lại cho T, T hút thêm mấy hơi rồi dập điếu thuốc lá có chứa chất cần sa để trên bàn. Khi cả nhóm đang hút thuốc có chứa chất cần sa thì N2 nhớ lại việc đang cất giữ gói ma túy lấy được từ chỗ L trong túi quần. N2 nói với N1 xuống quầy lễ tân ở tầng 1 mượn 01 cái đĩa để “xào đồ” (xào đồ tức là tán mịn ma túy”. N1 hiểu ý N2 và đi xuống quầy lễ tân ở tầng 1 lấy 01 cái đĩa bằng sứ cầm lên phòng hát đưa cho N2. N2 lấy gói ma túy được gói trong tờ tiền mệnh giá 1.000 Đ đổ ra đĩa, rồi hỏi “có ai có thẻ ngân hàng hoặc thẻ căn cước không để xào đồ?”. Nghe vậy, T hiểu ý của N2 là sử dụng dụng cụ như thẻ căn cước để tán mịn chất ma tuý ketamine rồi kẻ thành hàng nhỏ để hít vào người. Nên T nói “em có” và lấy thẻ căn cước công dân số 06620000X mang tên Thái Doãn T đưa cho N2 dùng làm dụng cụ để tán mịn ma túy. Sau đó, N2 đi vào phòng vệ sinh lấy giấy vệ sinh rồi một tay cầm chiếc đĩa sứ có chứa ma túy, một tay cầm giấy đốt và hơ phía dưới chiếc đĩa phía trên có chứa ma túy, sau khi đốt nóng chiếc đĩa lên thì N2 sử dụng thẻ căn cước công dân của T đưa tán mịn chất ma túy và dùng thẻ căn cước công dân kẻ ma túy thành các đường nhỏ dài khoảng 1-2cm để sử dụng hít chất ma túy. Sau khi đã tán mịn và kẻ chất ma túy thành các đường nhỏ, thì N2 hỏi “có ai có tờ tiền polime mệnh giá 10.000 Đ hoặc 20.000 Đ để N2 cuốn tròn làm ống hút để sử dụng hít chất ma túy?”. Nghe vậy, thì H lấy 01 tờ tiền polime mệnh giá 10.000 Đ đưa cho N2 để cuốn làm ống hút để sử dụng hít chất ma túy. N2 cầm tờ tiền cuốn tròn tờ tiền 10.000 Đ, tiếp theo N2 lấy 03 điếu thuốc lá nhãn hiệu 555 trong gói thuốc lá hiệu 555 của T, bẻ lấy 03 cái đầu lọc rồi rút hết bông xốp ra làm rỗng đầu lọc và nhét 02 cái đầu lọc thuốc lá 555 vào 02 đầu của tờ tiền 10.000đồng và 01 đầu lọc vào đoạn giữa của tờ tiền 10.000đồng để cố định thành 01 cái ống hút để hít chất ma túy, rồi để trên đĩa sứ chứa chất ma túy đã được tán mịn và kẻ thành các đường nhỏ. Sau khi đã chuẩn bị xong các công cụ để sử dụng chất ma túy, N2 cầm chiếc đĩa chứa chất ma túy ketamine đã được tán mịn và kẻ thành các đường nhỏ, cùng với ống hút đưa lần lượt cho H, N1, T và Đ cầm ống hút hít trực tiếp chất ma túy ketamine vào người bằng mũi. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, khi N2, H, N1, T và Đ đang sử dụng chất ma túy trong phòng hát VIP 4 tại quán karaoke H thì bị tổ công tác Công an huyện Lắk bắt quả tang và thu giữ tang vật liên quan đến việc sử dụng ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 1026/KL-KTHS ngày 18/10/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất bột màu được niêm phong trong phong bì M1, gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1855 gam, loại: Ketamine. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,1635 gam.

Thảo mộc khô được niêm phong trong phong bì M2 gửi giám định là ma tuý, có khối lượng: 1,1832 gam, loại: Cần sa. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng là 0,5565 gam.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2023/HS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Duy H phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy H: 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 19/01/2023.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên phạt đối với 03 bị cáo khác, tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo cho các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03/10/2023 bị cáo Nguyễn Duy H làm đơn kháng cáo với nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm cũng như lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Duy H và xác định Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là thỏa đáng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo Nguyễn Duy H không tranh luận bào chữa gì và chỉ đề nghị Hội Đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo tại phiên toà phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 11/10/2022, tại phòng VIP 4 quán karaoke H, Nguyễn Duy H, Đặng Phương N1, Thái Doãn T, Nông Cao N2 đã có hành vi tổ chức sử dụng trái phép 0,1368 gam ma túy loại ketamine, 0,5565 gam ma túy loại Cần sa. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Duy H về tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Duy H, Hội đồng xét xử thấy rằng: Mức hình phạt 07 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối bị cáo Nguyễn Duy H là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Bởi lẽ, bị cáo là đồng phạm tham gia tích cực trong việc chuẩn bị công cụ cho việc thực hiện tội phạm. Tổ chức cho 04 người và Phan Doãn Đ mới 17 tuổi 05 tháng 18 ngày sử dụng trái phép chất ma túy nên cần có một mức án thật nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung trong toàn xã hội.

Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Vì vậy, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm.

[3]. Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Duy H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Duy H – Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 17/2023/HS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk.

[2]. Điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy H 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 19/01/2023.

[3]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Duy H phải chịu 200.000 Đ án phí hình sự phúc thẩm.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5]. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 234/2023/HS-PT

Số hiệu:234/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:20/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về