Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 22/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 22/2024/HS-ST NGÀY 12/03/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2024/TLST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2024/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức C, sinh năm 1993 tại huyện huyện K, tỉnh H.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn L, xã C, huyện K, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Đức C1 và bà Lê Thị H;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện K từ ngày 17/9/2023 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Đình L, anh Nguyễn Lưu L1, anh Nguyễn Khắc Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 14/9/2023, Nguyễn Đức C, Nguyễn Đình L và anh Nguyễn Lưu L1 ăn uống tại quán bia thuộc thôn T, xã C, huyện K, tỉnh H. Khoảng hơn 21 giờ, sau khi ăn xong, cả ba cùng nhau đi đến quán Karaoke Đ thuộc thôn L, xã C để hát. C, L và anh L1 được ông Nguyễn Khắc Đ là người trông coi quản lý quán sắp xếp vào phòng hát số 03. Khi vào phòng hát, L gọi 03 nhân viên nữ (đều là nhân viên tự do không rõ lai lịch) vào phòng phục vụ rót bia và hát cùng. Khoảng 30 phút sau, C vay của anh L1 số tiền 1.000.000 đồng. Sau đó hỏi nhân viên nữ ngồi bên cạnh chỗ mua ma tuý thì được người này cho số điện thoại 0357 081 xxx của người bán để C tự liên hệ. Lúc này, C mượn điện thoại di động của L gọi đến số thuê bao nêu trên thì một người đàn ông nghe máy. C thỏa thuận mua của người này 03 viên ma tuý loại kẹo (MDMA) với giá 1.050.000 đồng và bảo cầm đến quán Karaoke Đ. Khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, người đàn ông bán ma tuý gọi điện thoại lại cho C bảo ra cửa quán lấy ma túy (lúc này C vẫn cầm điện thoại của L). C ra cửa quán Karaoke Đ gặp 01 người đàn ông ngồi trong xe ô tô không rõ biển số hạ cửa kính xuống, C đưa cho người đàn ông này số tiền 1.050.000 đồng (gồm 1.000.000 đồng tiền vay của L1 và 50.000 đồng là tiền của C), người này đưa cho C 01 túi nilon màu trắng chứa 03 viên ma tuý loại kẹo. C cầm túi ma tuý vào trong phòng hát rồi lấy 01 viên ma túy đưa cho L sử dụng. C đưa cho L1 01 viên ma túy nhưng L1 không cầm nên C đưa cho L tiếp tục sử dụng. Viên ma túy còn lại C pha vào cốc nước ngọt và tự uống. Sau khi sử dụng ma túy, C và L ở trong phòng số 03 quán Karaoke Đ nghe nhạc. Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 15/9/2023, lực lượng Công an huyện K phối hợp với Công an xã Cộng Hòa kiểm tra, thu giữ dưới nền phòng hát số 03 cạnh chân bàn 01 vỏ túi nilon màu trắng bên trong có chất bột màu xám bám dính (lúc này L1 đã về nhà, còn 03 nhân viên nữ đã ra khỏi phòng hát). C khai nhận vỏ túi nilon bị thu giữ nêu trên là vỏ túi đựng 03 viên ma túy loại kẹo do C mua trước đó.

Tại bản Kết luận giám định số 454/KL-KTHS ngày 18/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh H, kết luận: Chất bột màu xám bám dính bên trong túi nilon màu trắng được niêm phong trong phong bì gửi đến giám định là ma túy loại MDMA. Lượng mẫu bám dính rất nhỏ nên không xác định được khối lượng. Hoàn lại đối tượng giám định gồm 01 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định. Đối tượng giám định được hoàn lại trong niêm phong số 454/KL-KTHS.

Kết quả kiểm tra mẫu nước tiểu ngày 15/9/2023 của Nguyễn Đức C và Nguyễn Đình L đều dương tính với ma túy loại MDMA.

Tại Cáo trạng số: 19/CT-VKS ngày 22/02/2024, Viện kiểm sát nhân dân (viết tắt là VKSND) huyện K, tỉnh H truy tố bị cáo Nguyễn Đức C về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 255 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng và xin được hưởng mức án thấp nhất.

Đại diện VKSND huyện K giữ nguyên quan điểm như đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức C phạm tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy".

Áp dụng khoản 1 Điều 255, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm c khoản 2 Điều 106, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử phạt bị cáo C từ 26 tháng tù đến 29 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/9/2023.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: tịch thu và tiêu hủy 1 túi nilon màu trắng, 1 vỏ phong bì niêm phong.

Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, VKSND huyện K, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Nguyễn Đức C tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 14/9/2023, tại phòng số 03, quán Karaoke C thuộc thôn L, xã C, huyện K, tỉnh H, Nguyễn Đức C có hành vi cung cấp ma tuý loại MDMA để C và Nguyễn Đình L sử dụng trái phép. Đến hồi 01 giờ 30 phút ngày 15/9/2023 thì bị lực lượng Công an huyện K phối hợp với Công an xã Cộng Hòa kiểm tra phát hiện, thu giữ vật chứng như nêu trên.

[3] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi thực hiện là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nên hành vi trên của bị cáo đã phạm tội “Tổ chức trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, VKSND huyện K truy tố cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm và có tính chất nghiêm trọng đối với xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Hiện nay tệ nạn ma tuý không những là hiểm họa của toàn cầu và gây ra nhiều tác hại cho xã hội mà còn là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Vì vậy, hành vi trên của bị cáo phải bị xử lý nghiêm và cần thiết cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên tại quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tài liệu điều tra không đủ căn cứ để xử lý Lvà anh L1 đồng phạm với C về hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

Quá trình điều tra xác định thông tin thuê bao số điện thoại gọi cho C để bán ma túy mang tên Vương Văn K, sinh năm 1973, trú tại: thị trấn N, huyện N, tỉnh H. Anh K khai không đăng ký thông tin và sử dụng số điện thoại trên. Tài liệu điều tra không xác định được người bán chất ma tuý cho C và nhân viên nữ cho C số điện thoại để liên lạc mua ma túy là ai, ở đâu. Do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K không đủ căn cứ để xử lý.

Ngày 05/02/2024, Công an huyện K đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 08/QĐ-XPHC và số 09/QĐ-XPHC đối với C và L về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là phù hợp.

Trong vụ án này, ông Đ nghi vấn tại phòng hát số 3 các đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy nên đã trình báo Công an huyện K đến kiểm tra, xử lý. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K không đặt ra việc xử lý đối với ông Đ.

[4] Về hình phạt bổ sung: bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: 1 túi nilon màu trắng và 1 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu và tiêu hủy.

[6] Về án phí: bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 255, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Đức C phạm tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy".

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức C 27 (hai mươi bẩy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/9/2023.

3. Về xử lý vật chứng: tịch thu và tiêu hủy 01 vỏ túi nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định trong niêm phong số 454/KL-KTHS. (Tình trạng cụ thể của vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an huyện K và Chi cục THADS huyện K ngày 23/02/2024)

4. Về án phí: bị cáo Nguyễn Đức C phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 22/2024/HS-ST

Số hiệu:22/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về