TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN YÊN, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 22/2023/HS-ST NGÀY 29/03/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 3 năm 2023 tại điểm cầu trung tâm hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang và điểm cầu thành phần Tại tạm giam Công an tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 18/2023/TLST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2023/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Minh H- sinh năm 1994; Tên gọi khác: Không;
- Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Giang;
- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Chức vụ: Không; Trình độ học vấn: 9/12;
- Họ và tên cha: Nguyễn Quốc T, sinh năm 1960; Họ và tên mẹ: Trần Thị P- sinh năm 1959; Vợ: Nguyễn Ngọc Q, sinh năm 1996, Đều ở địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện T, Bắc Giang Con: Bị cáo có 01 con sinh năm 2018.
- Tiền án, tiền sự: Chưa.
- Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/11/2022, hiện đang tạm giam tại trại giam Công an tỉnh B (có mặt).
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1968 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Thôn C, xã V, huyện T, tỉnh Bắc Giang.
2. Chị Đặng Thị Mai L, sinh năm 1993 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện T, tỉnh Bắc Giang.
3. Anh Nguyễn Thành T1, sinh năm 1985 (có mặt) Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Giang.
4. Bùi Thanh D, sinh năm 1965 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn C, xã V, huyện T, tỉnh Bắc Giang.
5. Chị Nguyễn Ngọc Q, sinh năm 1996 (có mặt) Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau.
Hồi 15 giờ 20 phút ngày 15/11/2022, tổ công tác Phòng cảnh sát quản lý hành chính Công an tỉnh B tiến hành kiểm tra cơ sở lưu trú nhà nghỉ H1 ở thôn C, xã V, huyện T do bà Nguyễn Thị Đ làm chủ. Quá trình kiểm tra phát hiện tại phòng 107 tầng 1 có bật nhạc to có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra phát hiện có Đặng Thị Mai L, ở thôn Đ, xã L, huyện T và Nguyễn Minh H đang ở trong phòng, trong phòng có 1 số dụng cụ sử dụng ma túy, Phòng quản lý hành chính Công an tỉnh B đã tiến hành thu giữ các vật chứng sau:
- Thu tại gầm giường 01 túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa và đường kẻ màu xanh, được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu “NP03”.
- T2 tại nền nhà phòng 107: 01 hộp giấy bên trong có 01 đĩa sứ màu trắng;
01 micro màu đen được đựng trong 01 túi vải màu đen; 01 đèn nháy; 03 điều khiển, trong đó có 02 điều khiển màu đen và 01 điều khiển màu trắng; 01 thẻ ATM của Ngân hàng V tên Nguyễn Ngọc Q, 01 bật lửa ga màu xanh, 01 dây sạc điện thoại màu trắng.
- Thu giữ trên ghế trong phòng 01 loa màu đen nhãn hiệu JBL;
- Thu giữ trên mặt bàn trong phòng: 02 đèn nháy màu đen; 01 chìa khóa điện xe ô tô màu đen bạc; 01 túi xách màu nâu, bên trong đựng 02 thỏi son; 01 lọ nước hoa; 01 chìa khóa xe mô tô; 02 cục P1; 02 dây buộc tóc.
Thu giữ tại túi quần phía trước bên trái của Nguyễn Minh H đang mặc số tiền 605.000 đồng,được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu “NP01” -Thu giữ tại cốc để bàn chải đánh răng trong phòng tắm 01 tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng được quấn tròn, được niêm phong trong 01 phong bì thư dán kín, ký hiệu “NP 02”.
-Thu của Đặng Thị Mai L: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, có số IMEI 352986111679944, lắp sim số 0989.962.X; 01 xe mô tô màu trắng nhãn hiệu YAMAHA, biển kiểm soát 98H1-187.00.
- Kiểm tra xe ô tô biển kiểm soát 89A-X thu giữ 01 chiếc điện thoại di động IPhone có số IMEI 353908102938856; lắp sim số 0966.013.X.
-Thu 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone có số IMEI 359236068542932, lắp sim số 0337.459.X trong hốc để đồ ghế lái xe ô tô biển kiểm soát 89A-X.
-Thu giữ của Nguyễn Minh H 01 chiếc xe ô tô biển kiểm soát 89A-X.
Sau khi lập biên bản kiểm tra hành chính, Phòng quản lý hành chính đã thông báo và bàn giao hồ sơ vụ việc cho Cơ quan điều tra Công an huyện T. Nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, Nguyễn Minh H xin đầu thú về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”,Cơ quan điều tra Công an huyện T đã lập biên bản tiếp nhận đối tượng ra đầu thú và ra Quyết định tạm giữ đối với H về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Ngày 15/11/2022, Cơ quan điều tra tiến hành khám nghiệm hiện trường thu giữ 01 vỏ lon nước Cocacola trên mặt bàn uống nước trong phòng 107 tầng 1 nhà nghỉ H1 và thu giữ 01 ổ cứng lưu trữ dữ liệu camera tại nhà nghỉ H1.
Cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Minh H nhưng không thu giữ đồ vật tài liệu gì liên quan đến vụ án.
Quá trình điều tra Nguyễn Minh H đã khai nhận hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” cụ thể như sau:
Khoảng 23 giờ ngày 14/11/2022, Nguyễn Minh H đi chơi ở quán bar B ở khu vực gần đường tròn ở phường Đ, thành phố B, khi H đang đứng trước cửa quán thì có một người phụ nữ khoảng trên 30 tuổi đến bảo H “có mua đồ không” H hiểu người phụ nữ hỏi H có mua ma túy không nên H bảo “có” người phụ nữ bảo còn một ít ma túy K và một viên ma túy kẹo giá 450.000 đồng (H hiểu là ma túy dạng kẹo và Ketamine) nên đồng ý mua. H đưa cho người phụ nữ này 450.000 đồng, người phụ nữ đưa cho H 01 túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa bên trong đựng 01 viên ma túy dạng kẹo màu vàng và một ít Ketamine màu trắng, H cầm gói ma túy đút vào túi quần. Đến khoảng 11 giờ ngày 15/11/2022, H có nhắn tin qua zalo cho Đặng Thị Mai L, sinh năm 1993 ở thôn Đ, xã L, huyện T (là bạn gái của H) rủ L “có ít đồ xuống nhà nghỉ T3 chơi”, L hiểu ý H rủ L đến nhà nghỉ T3 cùng sử dụng ma túy, L đồng ý. H nhắn tin bảo L xuống nhà nghỉ H1 trước thuê phòng và lấy hộp giấy bên trong chứa đồ để sử dụng ma túy mà H gửi tại quầy lễ tân. Khoảng 11 giờ 45 phút, L đến nhà nghỉ H1, L gặp ông Bùi Thanh D, sinh năm 1965 ở thôn C, xã V, huyện T đang quản lý nhà nghỉ, L thuê phòng 107 tầng 1, đồng thời L lấy một non nước Coca mang vào phòng để uống. Sau khi mang đồ vào phòng, L quay ra quầy lễ tân lấy thùng giấy bên trong đựng loa, đèn nháy, micro, đĩa sứa vào trong phòng thì lúc này chị Đỗ Kiều N, sinh năm 1992 là con dâu bà Đ, ông D ra quầy lễ tân trông coi, quản lý nhà nghỉ thay ông D, L lấy thùng giấy mang vào phòng 107 rồi đi tắm. Khoảng 12 giờ cùng ngày, H điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 89A- X đến nhà nghỉ H1, H vào phòng 107, lúc này L đang tắm. H bỏ loa, đèn nháy ra lắp, H bỏ đĩa sứ và lấy gói ma túy trong túi quần ra, đổ ma túy Ketamin ra đĩa sứ, lúc này L tắm xong đi ra, H lấy viên ma túy dạng kẹo màu vàng trong túi nilon ra bẻ đôi đưa cho L ½ viên ma túy kẹo, ½ viên ma túy kẹo còn lại H sử dụng bằng hình thức uống cùng với nước Coca. H sử dụng ma túy kẹo xong, H đưa cho L non nước Cocacola Hiếu vừa dùng để L uống cùng ½ viên ma túy dạng kẹo. Sau khi H và L sử dụng ma túy xong thì H đưa cho L 1 tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng và bảo L quấn tròn lại làm ống hút để sử dụng ma túy Ketamine, H bẻ phần đầu lọc điếu thiếu lá rồi rút phần đầu lọc ra khỏi vỏ giấy và đút tờ tiền đã được L quấn tròn vào trong mảnh giấy quanh đầu lọc, sau đó H đi tắm. Sau khi H tắm xong H ra giường nằm cùng L một lúc rồi H dậy dùng thẻ ATM xào ke trên đĩa sứ mài nhỏ ma túy thành dạng bột và chia ma túy trên đĩa làm hai phần. H sử dụng tờ tiền đã quấn tròn hít một phần ma túy ở trên đĩa, sau đó đưa tờ tiền cho L, L sử dụng tờ tiền hít phần ma túy còn lại trên đĩa. Sử dụng ma túy xong H và L bật nhạc nhảy đến khoảng 13 giờ thì cả hai lên giường đi ngủ. Khoảng 15 giờ 10 phút H và L ngủ dậy, H cầm đĩa sứ, ống hút tiền, thẻ ATM vào nhà vệ sinh rửa sạch, H để tờ tiền 10.000 đồng, đĩa sứ, thẻ ATM, H cho vào thùng giấy và bảo L mang hộp giấy ra gửi nhà nghỉ, L cầm hộp giấy ra đến cửa thì gặp Lực lượng Phòng quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh B kiểm tra nên yêu cầu L quay lại phòng để lập biên bản kiểm tra hành chính thì L cầm tờ tiền 10.000 đồng cuộn tròn vào nhà vệ sinh để trong chiếc cốc đựng kem đánh răng, Phòng quản lý hành chính Công an tỉnh B tiến hành kiểm tra thu giữ các vật chứng nêu trên :
Ngày 15/11/2022, Cơ quan điều tra đã tiến hành lấy mẫu nước tiểu của H và L cho vào trong chai nhựa dán kín niêm phong ký hiệu lần lượt là “H” và “L”, Cơ quan điều tra trưng cầu Phòng K1 Công an tỉnh B giám định mẫu nước tiểu của H và L có chất ma túy không, loại chất ma túy gì? Tại kết giám định số 2136/KL-KTHS ngày 21/11/2022 của Phòng K1 Công an tỉnh B kết luận:
- Trong mẫu chất lỏng màu vàng (nước tiểu) đựng trong 01 (một) chai nhựa được dán kín, niêm phong, ký hiệu “HIẾU” gửi giám định có tìm thấy chất ma túy MDMA và D1.
- Trong mẫu chất lỏng màu vằng (nước tiểu) đựng trong 01 (một) chai nhựa được dán kín, niêm phong, ký hiệu “LOAN” gửi giám định có tìm thấy chất ma túy MDMA và D1.
(Dehydronorketamine là sản phẩm chuyển hóa của chất ma túy Ketamine trong cơ thể).
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành thực nghiệm điều tra cho H và L diễn lại hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ở tại nhà nghỉ H1 ngày 15/11/2022, H và L diễn lại thuần thục việc sử dụng trái phép chất ma túy như H và L đã khai.
Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra đối với 02 chiếc điện thoại thu giữ của L và H, kết quả kiểm tra không phát hiện có nội dung gì liên quan đến vụ án.
Tại cơ quan điều tra bị cáo H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của minh.
Tại cáo trạng số 22/CT-VKS, ngày 02/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên đã truy tố Nguyễn Minh H về tội “Tổ chức sử dụng trái pháp chất ma túy” theo quy định tại khoản 1, điều 255 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay sau phần xét hỏi, tại phần tranh luận Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên thực hành quyền công tố đã luận tội đối với bị cáo, phân tích, đánh giá tính chất nguy hiểm của vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đồng thời giữ nguyên quan điểm như bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử. Áp dụng khoản 1, điều 255, điểm s, khoản 1, khoản 2, điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt Nguyễn Minh H từ 2 (hai) năm 02 (hai) tháng đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ 15/11/2022.
Về vật chứng: Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự: điểm a, khoản 2, điểm a, khoản 3, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư niêm phong ký hiệu “NP03” bên trong có một túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa và đường kẻ màu xanh.
02 quẻ test nhanh ma túy L, H; 01 hộp giấy; 01 đĩa sứ màu trắng; 01 thẻ ATM của ngân hàng V1 tên NGUYEN NGOC QUYNH; 01 bật lửa ga màu xanh; 01 túi nolon được niêm phong bên trong có 01 vỏ cocacola;
+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
01 micro màu đen; 03 đèn nháy; 2 điều khiển màu đen, 01 điều khiển màu trắng; 01 loa màu đen nhãn hiệu JBL; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone lắp sim số 0966.013.X. 01 phong bì niêm phong ký hiệu “NP2” hiện đang được bảo quản tại kho bạc huyện T bên trong có số tiền 10.000đ Trả lại H 01 điện thoại di động Iphone có số IMEI 359236068542932, lắp sim số 0337.459X; 01 dây xạc điện thoại màu trắng và 605.000đ được niêm phong trong phong bì có ký hiệu “NP1” đang được bảo quản tại kho bạc huyện T;nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Ngoài ra còn để nghị xử lý tiền án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật:
Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” như bản Cáo trạng đã nêu, bị cáo không tranh luận gì mà chỉ đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, người liên quan không có gì tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1.]Về Tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đ, ông D, chị L vắng mặt nhưng đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Nên hội đồng xét xử căn cứ quy định tại điều 292; Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt những người trên.
[2.]Về tội danh: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay Nguyễn Minh H thừa nhận khoảng 23 giờ ngày 14/11/2022 H đi chơi ở quán Bar B ở khu vực gần đường tròn phường Đ, thành phố B. H có mua của người phụ nữ khoảng 30 tuổi, không biết tên, tuổi, địa chỉ, một viên ma túy dạng kẹo màu vàng và một ít ma túy Ketamine dạng bột màu trắng với số tiền 450.000đ. H đem về cất giữ đến khoảng 11 giờ ngày 15/11/2022 H có nhắn tin qua Zalo rủ bạn là Đặng Thị Mai L ở thôn Đ, xã L, huyện T, tỉnh Bắc Giang đến thuê nhà nghỉ T3 ở thôn C, xã V, huyện T để cùng nhau sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng ma túy xong đến khoảng 15 giờ 10 phút L đang mang các dụng cụ sử dụng ma túy đi cất xuống xe ô tô thì bị lực lượng phòng quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh B vào kiểm tra hành chính thu giữ các vật chứng như đã nêu trên. Nguyễn Minh H đã khai nhận toàn bộ hành vi cùng Đặng Thị Mai L sử dụng ma túy tại phòng 107 của nhà nghỉ T3.
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của chị L, phù hợp với tang vật chứng đã thu giữ được, phù hợp với kết luận giám định cũng như các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Điều đó có đủ cơ sở chắc chắn khẳng định: Nguyễn Minh H phạm tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy" như vậy Cáo trạng số 22/CT- VKS-YT ngày 02/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên truy tố bị cáo Nguyễn Minh H về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, không những thế còn làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người khác, suy thoái đạo đức xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Trong tình hình xã hội hiện nay, tệ nạn ma tuý đang là một trong những vấn nạn của xã hội và ngày càng có diễn biến phức tạp, tinh vi hơn, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nhiều loại tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Bị cáo nhận thức được hành vi "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý" là trái pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử thấy cần phải có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Xét về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi phạm tội bị cáo ra đầu thú, gia đình bị cáo có ông nội là liệt sỹ. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự bị cáo được hưởng.
Đối chiếu với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. HĐXX nhận thấy trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, khi phạm tội ra đầu thú, thành khẩn khai báo, ăn lăn hối cải, ông nội bị cáo là liệt sỹ. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, chỉ cần xử bị cáo mức khởi điểm cũng đủ sức răn đe đối với bị cáo, nhưng cần thiết cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.
Về hình phạt bổ sung bằng tiền. Do bị cáo H không có mục đích lợi nhuận nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
[4] Về vật chứng: Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đưa ra về xử lý vật chứng là phù hợp, có cơ sở chấp nhận. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS.
+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư niêm phong ký hiệu “NP03” bên trong có một túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa và đường kẻ màu xanh.
02 quẻ test nhanh ma túy của L, H; 01 hộp giấy; 01 đĩa sứ màu trắng; 01 thẻ ATM của ngân hàng V1 tên NGUYEN NGOC QUYNH; 01 bật lửa ga màu xanh; 01 túi nolon được niêm phong bên trong có 01 vỏ cocacola;
+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước. 01 micro màu đen được đựng trong một túi vải màu đen; 03 đèn nháy; 2 điều khiển màu đen, 01 điều khiển màu trắng; 01 loa màu đen nhãn hiệu JBL; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone có số IMEI 353908102938856 lắp sim số 0966.013.X. 01 phong bì niêm phong ký hiệu “NP2” bên trong có số tiền 10.000đ đang được bảo quản tại Kho bạc huyện T Trả lại H 01 điện thoại di động Iphone có số IMEI 359236068542932, lắp sim số 0337.459X; 01 dây xạc điện thoại màu trắng, 01 phong bì niêm phong ký hiệu “NP1” đang được bảo quản tại Kho bạc huyện T bên trong có số tiền là 605.000đ; nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Đối với người phụ nữ bán ma túy cho H, H không biết tên, tuổi, địa nên không có căn cứ để xác minh làm rõ xử lý đối với người phụ nữ này.
Đối với hành vi sử dụng trái phép ma túy của H và L Công an huyện T đã ra quyết định xử lý hành chính là đúng quy định pháp luật.
Đối với ông Bùi Thanh D và chị Đỗ Kiều N là người trông coi, quản lý nhà nghỉ giúp bà Đ đều không biết việc H và L sử dụng trái phép chất ma túy nên không có căn cứ xử lý. Tuy nhiên việc kinh doanh nhà nghỉ của bà Đ đã vi phạm quy định về phòng, chống và kiểm soát ma túy và không thực hiện đầy đủ quy trình kiểm tra, vào sổ lưu trú đã vi phạm quy định về quản lý ngành, nghề kinh doanh có điều kiện nên cơ quan điều tra đã chuyển tài liệu đến Công an huyện T để xử lý hành chính là đúng trình tự thủ tục quy định pháp luật.
Chiếc xe ô tô biển kiểm soát 89A-X là của anh T1, cho H mượn, anh T1 không biết H đã sử dụng vào việc vi phạm pháp luật, Cơ quan điều tra đã trả lại xe ô tô cùng chìa khóa xe anh T1 là có căn cứ.
Đối với 01 ổ cứng lưu trữ dữ liệu camera là của gia đình bà Đ Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Đ.
[5] Về tiền án phí:
Bị cáo Nguyễn Minh H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo luật định;
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3, Điều 106; Điều 135; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:
1. Xử phạt: Nguyễn Minh H 02 (hai) năm 02 (hai) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 15/11/2022.
Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo H.
2. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư niêm phong ký hiệu “NP03” bên trong có một túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa và đường kẻ màu xanh; 01 quẻ test nhanh ma túy mang tên Đặng Thị Mai L; 01 que test nhanh ma túy mang tên Nguyễn Minh H; 01 hộp giấy; 01 đĩa sứ màu trắng; 01 thẻ ATM của ngân hàng V1 tên NGUYEN NGOC QUYNH; 01 bật lửa ga màu xanh; 01 túi nolon được niêm phong bên trong có 01 vỏ cocacola;
+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 micro màu đen được đựng trong một túi vải màu đen; 03 đèn nháy; 03 điều khiển trong đó có 2 điều khiển màu đen, 01 điều khiển màu trắng; 01 loa màu đen nhãn hiệu JBL; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone có số IMEI 353908102938856 lắp sim số 0966.013.X. số tiền 10.000đ được niêm phong trong phong bì ký hiệu “NP2” đang được bảo quản tại Kho bạc huyện T.
Trả lại H 01 điện thoại di động Iphone có số IMEI 359236068542932, lắp sim số 0337.459X; 01 dây xạc điện thoại màu trắng; số tiền 605.000đ được niêm phong trong phong bì ký hiệu “NP1” đang được bảo quản tại Kho bạc huyện T; nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Lụât Thi hành án dân sự; thời hiêụ thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) bản án.
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 22/2023/HS-ST
Số hiệu: | 22/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Yên - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về