TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 189/2022/HS-PT NGÀY 14/09/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hoá mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 247/2022/TLPT- HS ngày 10 tháng 8 năm 2022. Do có kháng cáo của các bị cáo Trần Anh T, Hồ Thị Tr và Dương Nhật L đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 202/2022/HS-ST ngày 30/6/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
* Các bị cáo kháng cáo:
1. Trần Anh T, tên gọi khác: Không - sinh năm 1993 tại thành phố Thanh Hóa.
Nơi cư trú: Số nhà x H, phường N, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa;
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Quang Cộvà bà Đặng Thị N; Vợ Nguyễn Thị Minh H, có 02 con: Lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2021.
Tiền án; Tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 11/4/2012, Công an thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.
Tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/12/2021 đến ngày 30/01/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
2. Hồ Thị Tr, tên gọi khác: Không - sinh năm 1990 tại huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Nơi cư trú: Thôn H, thị trấn L, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Nơi ở hiện nay: Phòng 908 H1 Chung cư Phú Sơn, phường Phú Sơn, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hồ Ngọc T và bà Lê Thị N; Chồng: Nguyễn Văn H (Đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2007.
Tiền án; Tiền sự: Không.
Tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/12/2021 đến ngày 25/01/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
3. Dương Nhật L, tên gọi khác: Không - sinh năm 1995 tại huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Nơi cư trú: Thôn T, xã X, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương Minh N và bà Nguyễn Thị H; Chồng: Ngô Xuân H (Đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2014.
Tiền án; Tiền sự: Không.
Tạm giữ ngày 02/12/2021, đến ngày 10/12/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: (Không kháng cáo).
1. Anh Hồ Sỹ P - sinh năm 1986. Địa chỉ: Thôn X, thị trấn Ngọc Lặc, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa.
2. Chị Trần Khánh H - sinh năm 1988. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã Xuân Bái, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Chỗ ở: Số nhà C, phường A, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
3. Anh Nguyễn Hoàng T - sinh năm 1995. Địa chỉ: Số nhà C, phường A, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
4. Chị Nguyễn Thị Ng - sinh năm 1998. Địa chỉ: Số nhà 101B Duy Tân, phường N, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tối ngày 01/12/2021 Trần Anh T, Hồ Thị Tr, Hồ Sỹ P, Trần Khánh Hu, Nguyễn Hoàng Tù và Nguyễn Thị Ng cùng nhau ăn uống tại nhà hàng Ba Cô, phường Đông Cương, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Khi ăn xong T rủ mọi người về nhà Tr ở phòng 908H1 chung cư Phú Sơn, phường Phú Sơn, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa để sử dụng ma túy thì mọi người đồng ý. T gọi điện thoại cho Dương Nhật L nhờ L mua hộ cho T 07 viên thuốc lắc và 02 chỉ Ketamine. Sau khi nhận lời mua hộ ma túy cho T, L điện thoại cho Trần Thị Thu trú tại phòng B608 Chung cư Ruby, phường Lam Sơn, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa nhờ Thu mua hộ ma túy cho L, Thu hẹn L ra gốc cây bên hông chung cư Ruby lấy ma túy.
Khoảng 21h cùng ngày T chở Tr, P và Hu từ quán Ba Cô về nhà Tr, trên đường về T qua chung cư Ruby gặp L lấy ma túy, khi gặp L, T rủ L đi sử dụng ma túy nên L cầm ma túy cùng mọi người về nhà Tr, khi gần đến nhà Tr, T nói L đi mua Cocacola để về sử dụng thuốc lắc. Lên đến phòng 908H1 chung cư Phú Sơn, L để 07 viên thuốc lắc và gói Ketamine xuống bàn ở phòng khách, T vào bếp lấy ra 01 đĩa sứ, T để viên thuốc lắc và gói Ketamine lên đĩa, cùng lúc đó Tù và Ng đến, T đưa viên thuốc lắc cho Tù sử dụng rồi T cầm đĩa cùng gói ketamine xuống bếp hơ trên bếp ga rồi mang vào phòng ngủ, thấy trên bàn Tr điểm của Tr có để sẵn 01 thẻ cào, 01 ống hút được cuộn từ tờ tiền polyme mệnh giá 10.000 đồng nên T đổ gói keamine ra đĩa, lấy chiếc thẻ nhựa xào ketamine, T tự kẻ cho mình hút 02 đường ketamine, sau đó lần lượt đến Tr, L, P và Tù sử dụng ketamine, Ng và Hu không sử dụng ma túy mà chỉ sử dụng bóng cười. Đến 01h30’ ngày 02/12/2021 thì Tổ công tác Công an thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa vào phòng kiểm tra, phát hiện thu giữ: 01 đĩa sứ, 01 thẻ nhựa trên thẻ còn bám dính chất bột màu trắng, 01 ống hút cuộn từ tờ tiền polyme mệnh giá 10.000 đồng, 01 bật lửa ga, 01 loa, 01 đèn, 02 vỏ túi nilong màu trắng, 02 vỏ lon cocacola, 01 bình khí và 07 xác bóng cười.
Ngoài ra Cơ quan điều tra còn thu giữ của Trần Anh T 01 điện thoại di động Iphone Xs Max, số máy MT522VN/A, của Dương Nhật L 01 điện thoại di động Iphone 8Plus, số máy MRTC2LL/A.
Kết quả xét nghiệm nhanh đối với mẫu nước tiểu thu giữ của Trần Anh T, Hồ Sỹ P, Nguyễn Thị Ng, Hồ Thị Tr, Nguyễn Hoàng Tù và Dương Nhật L đều dương tính với các loại ma túy là Methamphetamine, Ketamine và MDMA.
Kết luận giám định số 3654/PC09 ngày 07/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa đã giám định kết luận: Chất bột màu trắng bám dính trên chiếc thẻ nhựa của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, không xác định được khối lượng.
Tang vật thu giữ: 01 đĩa sứ, 01 thẻ nhựa, 01 ống hút cuộn từ tờ tiền polyme mệnh giá 10.000 đồng, 01 bật lửa ga, 01 loa, 01 đèn, 02 vỏ túi nilong màu trắng, 02 vỏ lon Cocacola, 01 bình khí và 07 xác bóng cười; 02 điện thoại di động (01 điện thoại Iphone Xs Max, số máy MT522VN/A, 01 điện thoại di động Iphone 8Plus, số máy MRTC2LL/A) được chuyển đến Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thanh Hóa để xử lý theo quy định của pháp luật.
Trong vụ án này, theo L khai đã nhờ Trần Thị Thu mua hộ ma túy, quá trình điều tra Thu không thừa nhận mua hộ ma túy cho L, ngoài lời khai của L không có tài liệu chứng minh hành vi mua bán ma túy của Thu, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý Thu.
Đối với Nguyễn Thị Ng, Hồ Sỹ P, Nguyễn Hoàng Tù có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Công an thành phố Thanh Hóa đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
Bản án hình sự sơ thẩm số 202/2022/HSST ngày 30/6/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã tuyên các bị cáo Trần Anh T, Hồ Thị Tr, Dương Nhật L phạm tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Trần Anh T). Điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 54; Điều 58 Bộ luật hình sự (đối với các bị cáo Hồ Thị Tr và Dương Nhật L). Xử phạt:
Trần Anh T 07 (Bảy) năm tù. Hồ Thị Tr 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù và Dương Nhật L: 05 (Năm) năm tù. Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành án. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Trong hạn luật định, các bị cáo Trần Anh T, Hồ Thị Tr và Dương Nhật L đều có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như bản án sơ thẩm đã tuyên và giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Cũng tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Thanh Hóa sau khi phân tích tính chất vụ án, nhân thân, hành vi phạm tội của các bị cáo cũng như tình tiết mới được bổ sung tại phiên tòa đã đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) chấp nhận kháng cáo của các bị cáo giảm hình phạt cho bị cáo Trần Anh T từ 18 (Mười tám) tháng đến 24 (Hai bốn) tháng tù, giảm cho bị cáo Hồ Thị Tr và Dương Nhật L từ 15 (Mười lăm) tháng đến 18 (Mười tám) tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:
[1] Xét về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của các bị cáo trong thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 333 BLTTHS, nên đơn kháng cáo được coi là hợp pháp. Do vây, HĐXX cấp phúc thẩm chấp nhận đơn của các bị cáo để xem xét nội dung kháng cáo theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo đều thừa nhận hành vi của mình cụ thể: Khoảng 21h ngày 01/12/2021 tại Phòng 908 H1 chung cư Phú Sơn, phường Phú Sơn, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, các bị cáo Trần Anh T, Hồ Thị Tr, Dương Nhật L đã có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho bản thân và các đối tượng Nguyễn Hoàng Tù, Hồ Sỹ P, đến 1h30’ ngày 02/12/2021 thì bị Công an thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa phát hiện bắt quả tang, thu giữ tang vật. Lời thừa nhận về hành vi phạm tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cấp sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được kiểm tra tại phiên tòa nên hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự (BLHS). Trong vụ án này, các bị cáo đã cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội với hình thức đồng phạm giản đơn. Trong đó, bị cáo Trần Anh T là người khởi xướng việc sử dụng ma túy, chuẩn bị ma túy bằng việc gọi điện cho L nhờ mua ma túy, đưa thuốc lắc cho Nguyễn Hoàng Tù và xào Ketamine cho mọi người sử dụng. Bị cáo Hồ Thị Tr đồng ý dùng nơi ở của mình (nhà) làm địa điểm cho các đối tượng sử dụng ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy (thẻ nhựa cứng, ống hút cuộn bằng tờ tiền 10.000 đồng, loa, đèn) đều là của bị cáo và bị cáo Dương Nhật L là người được T nhờ mua ma túy để cùng sử dụng. Cấp sơ thẩm đã xác định tội danh và khung hình phạt cho các bị cáo là có căn cứ pháp luật.
[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo:
[3.1] Nhận thấy, khi lượng hình cấp sơ thẩm có xem xét, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là “thành khẩn khai báo” (điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS). Bị cáo Hồ Thị Tr đã cung cấp thông tin cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên phá thành công chuyên án 422L về ma túy, bắt giữ đối tượng Lò Văn Lún, địa chỉ: Bản Na Pheo, xã Na Sang, huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên về hành vi mua bán trái phép chất ma túy; bị cáo Dương Nhật L đã thông tin cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa bắt giữ, khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Bùi Văn Nhất, địa chỉ: Thôn Thọ Phú, xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên các bị cáo Tr và L được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo Trần Anh T, Hồ Thị Tr và Dương Nhật L đều tích cực ủng hộ quỹ phòng chống dịch covid-19, đều có hoàn cảnh gia đình khó khăn (có xác nhận của chính quyền địa phương) nên các bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 51 BLHS.
Các tình tiết giảm nhẹ nói trên cấp sơ thẩm áp dụng là phù hợp với quy định của pháp luật. Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[3.2] Tại cấp phúc thẩm các bị cáo đều có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, cụ thể: Sau khi xét xử sơ thẩm và trong quá trình tại ngoại tại địa phương, các bị cáo đều đã nhận thức rõ về hành vi sai phạm của mình, tiếp tục tham gia ủng hộ quỹ phòng chống dịch Covid-19 tại địa phương. Bị cáo Tr và L đều là phụ nữ, đã ly hôn chồng và đang nuôi con nhỏ, đều có hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, bản thân là lao động chính. Gia đình bị cáo L là gia đình có công với cách mạng, hiện đang thờ cúng liệt sỹ có chú ruột và cậu ruột đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, bị cáo Tr có con đẻ bị bệnh trầm cảm nặng. Đều được chính quyền địa phương xác nhận. Do đó các bị cáo được áp dụng thêm các tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS.
Đối với bị cáo Trần Anh T sau khi phạm tội, đã ăn năn hối cải, nhận thức được lỗi lầm của mình, tích cực tham gia giúp đỡ Cơ quan Công an trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Ngày 18/3/2022 Cơ quan CSĐTT Công an huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa có công văn số 205/CV-CSĐT xác nhận về việc ghi nhận thành tích của Trần Anh T đã cung cấp nhiều thông tin có giá trị để Công an huyện Thạch Thành bắt, khởi tố 01 đối tượng về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại thôn Liên Hưng, xã Thành Hưng, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa. Do vậy cần xem xét áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo T theo điểm t khoản 1 Điều 51 của BLHS.
[3.3] HĐXX nhận thấy tại cấp phúc thẩm, các bị cáo đều có thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS, riêng bị cáo T có thêm tình tiết mới quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS, khi Bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, điều đó thể hiện sự ăn năn hối cải, hối hận với việc làm của mình. Mặc dù các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Song hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nghiêm trọng, vậy nên cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống cộng đồng xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và để đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.
[3.4] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới cũng như nhân thân, hoàn cảnh gia đình của các bị cáo. HĐXX xét thấy cần chấp nhận kháng cáo, xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của Nhà nước mà yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình, xã hội.
[3.5] Từ phân tích và nhận định nêu trên, HĐXX nhận thấy, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Trần Anh T, Hồ Thị Tr, Dương Nhật L là có cơ sở chấp nhận. Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là đề nghị HĐXX áp dụng Điều 357 của BLTTHS, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa phần hình phạt của Bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật.
[4] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị HĐXX không xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Trần Anh T, Hồ Thị Tr và Dương Nhật L. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 202/2022/HSST ngày 30/6/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa về phần hình phạt.
Tuyên bố: Các bị cáo Trần Anh T, Hồ Thị Tr và Dương Nhật L phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s; t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 54 và Điều 58 của Bộ luật hình sự.
1. Xử phạt: Bị cáo Trần Anh T 05 (Năm) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam (từ ngày 02/12/2021 đến ngày 30/01/2022).
2. Xử phạt: Bị cáo Hồ Thị Tr 04 (Bốn) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam (từ ngày 02/12/2021 đến ngày 25/01/2022).
3. Xử phạt: Bị cáo Dương Nhật L 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Được trừ thời gian tạm giữ (từ ngày 02/12/2021 đến ngày 10/12/2021).
Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Trần Anh T, Hồ Thị Tr và Dương Nhật L không phải chịu án phí hình sự phúc.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 189/2022/HS-PT
Số hiệu: | 189/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về