TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 181/2024/HS-ST NGÀY 28/03/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 3 năm 2024, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 198/2024/HSST, ngày 29 tháng 02 năm 2024 và theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 206/2024/QĐXXST - HS, ngày 14 tháng 3 năm 2024 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Phạm DC - sinh năm 1977. Giới tính: Nam. Nơi cư trú: Thôn Quyết Thắng 2, xã XB, huyện TX, tỉnh Thanh Hóa. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Con ông Phạm Duy C và bà Đào Thị C. Vợ: Đặng Thị P – sinh năm 1980. Bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2008. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/12/2023, chuyển tạm giam ngày 22/12/2023. Ngày 01/02/2024 được hủy bỏ biện pháp tạm giam, áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, (có mặt).
2. Họ và tên: Phạm NH - sinh năm 1977. Giới tính: Nam. Nơi cư trú: Khu phố 3, thị trấn LS, huyện TX, tỉnh Thanh Hóa. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Nghề nghiệp: Giáo viên. Trình độ học vấn: 12/12. Con ông Phạm Ngọc Thiệp và bà Đào Thị Thảo (đã chết). Vợ: Phạm Thị Thắm – sinh năm 1977. Bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2012. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/12/2023, chuyển tạm giam ngày 22/12/2023 đến nay, tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, (có mặt).
3. Họ và tên: Nguyễn HT - sinh năm 1977. Giới tính: Nữ. Nơi cư trú: Khu phố Nhân Lộ, thị trấn VL, huyện VL, tỉnh Thanh Hóa. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn:
10/12. Con ông Nguyễn Đức Bình và bà Lê Thị Huấn. Chồng: Nguyễn Văn Cận (đã ly hôn). Bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2010. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/12/2023, chuyển tạm giam ngày 22/12/2023 đến nay, tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, (có mặt).
* Người chứng kiến: Anh La QL - sinh năm 1987. Nơi cư trú: Thôn Đa Thượng, xã LS, huyện HL, tỉnh Thanh Hóa, (vắng mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Trương TT - sinh năm 1996. Nơi thường trú: Thôn Khánh Dư, xã HĐ, huyện HH, tỉnh Thanh Hóa. Nơi ở hiện nay: Số 144 đường Lê TT, phường ĐV, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, (vắng mặt).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 02 giờ 00 phút ngày 13/12/2023, Tổ công tác Công an thành phố Thanh Hóa phối hợp với Lễ tân khách sạn Kim Chung kiểm tra hành chính tại Phòng 508 có Phạm NH và Nguyễn HT đang ở, Phòng 710 có Phạm DC và Trương TT đang ở. Qua kiểm tra, tại Phòng 508 phát hiện, thu giữ 01 loa màu xanh, 01 điện thoại di động Sam Sung Galaxy A13 và 01 gói giấy màu trắng bên trong có 01 mảnh viên thuốc màu trắng dưới nền cạnh vị trí chiếc quần của Hiệu. Tại Phòng 710 thu giữ 01 loa màu xanh và 01 điện thoại di động Iphone 7 của Cường.
Tại Cơ quan điều tra các đối tượng khai nhận: Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 12/12/2023, Phạm DC, Phạm NH và Nguyễn HT ngồi uống rượu, nghe nhạc tại quán Zone 8, ở số 08 Cao Thắng, phường Điện Biên, thành phố Thanh Hóa. Cường nảy sinh ý định đưa ma túy thuốc lắc cho Tuyết cùng sử dụng, nên Cường rủ Tuyết đi ra ngoài đường, Cường lấy trong người ra 01 gói giấy màu trắng bên trong có 02 viên nén màu trắng là ma túy thuốc lắc, Cường đưa cho Tuyết 01 viên và giữ lại 01 viên để mang vào quán sử dụng. Khi vào quán, Cường lấy 01 viên thuốc lắc sử dụng uống với nước Cocacola, Tuyết lấy viên thuốc lắc đưa cho Hiệu và bảo Hiệu bẻ đôi để cùng sử dụng. Hiệu sau khi bẻ đôi đã đưa cho Tuyết một nữa, Tuyết sử dụng uống với nước Cocacola, Hiệu bẻ đôi phần còn lại uống với nước Cocacola, còn để lại một phần vào túi quần để khi cần thì sử dụng. Một lúc sau, có Lê Thị Thắm là bạn của Tuyết đến ngồi uống rượu và nghe nhạc cùng, sau đó chị Thắm ra về trước. Khoảng gần 24 giờ cùng ngày, Cường, Hiệu và Tuyết đến khách sạn Kim Chung thuê phòng nghỉ. Khi đến khách sạn Tuyết mang theo 01 loa điện tử màu xanh, Cường mang theo 01 loa điện tử màu xanh, Hiệu và Tuyết thuê Phòng 508, Cường thuê Phòng 710, Hiệu lấy điện thoại kết nối với Loa bật nhạc rồi cùng Tuyết nằm nghe nhạc. Cường dùng điện thoại gọi cho bạn là Trương TT lên phòng trò chuyện, dùng điện thoại kết nối với Loa và cùng Thủy nghe nhạc. Sau đó, bị kiểm tra, lập biên bản và thu giữ vật chứng.
Khi Cường đưa ma túy cho Tuyết, Cường chỉ nói Tuyết cầm lấy sử dụng. Việc Tuyết đưa ma túy cho Hiệu sử dụng thì Cường không biết và Tuyết cũng không nói cho Cường biết.
Về nguồn gốc số ma túy Cường khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy, nên Cường đã tìm mua được 02 viên thốc lắc với giá 600.000 đồng của người tên Tú (Cường không rõ lai lịch, địa chỉ) ở đường Cao Thắng, phường Điện Biên, thành phố Thanh Hóa.
Ngày 13/12/2023, tại Cơ quan điều tra Cường, Hiệu, Tuyết xin đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
Tại Kết luận giám định số: 4556/KL-KTHS ngày 19/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Tìm thấy chất ma túy, loại: MDMA trong mẫu nước tiểu ghi thu của Phạm DC, Phạm NH, Nguyễn HT gửi đến giám định. Không tìm thấy chất ma túy, loại: MDA, MDMA, Amphetamine, Ketamine, Methamphetamine trong mẫu nước tiểu ghi thu của Trương TT gửi đến giám định.
Tại Kết luận giám định số: 4557/KL-KTHS ngày 19/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: 01 mảnh viên nén màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,043g (không phẩy không bốn ba gam), loại: MDMA.
Đối với người đàn ông tên Tú bán ma túy cho Cường, do Cường không biết rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể, nên không có căn cứ để xử lý.
Đối với hành vi cất giấu 0,043 gam ma túy MDMA nhằm mục đích để sử dụng của Phạm NH chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, Công an thành phố Thanh Hóa đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Phạm NH.
Đối với khách sạn Kim Chung trong quá trình hoạt động không biết Hiệu tàng trữ trái phép chất ma túy, khi có nghi vấn đã chủ động phối hợp với Cơ quan Công an để làm rõ, Cơ quan Công an đã tuyên truyền để cơ sở chấp hành nghiêm quy định của pháp luật.
Đối với Trương TT và Lê Thị Thắm không biết việc các bị cáo sử dụng ma túy, nên không có căn cứ để xử lý.
Đối với Cao Xuân Trường là người được giao nhiệm vụ quản lý quán Zone 8, nhưng Trường không biết việc Phạm DC cùng đồng phạm Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy tại quán. Cho nên, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh Hóa đã đề nghị Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính Cao Xuân Trường về hành vi “Người được giao quản lý cơ sở kinh doanh, dịch vụ để xảy ra hoạt động sử dụng trái phép chất ma túy trong khu vực do mình quản lý”.
Số vật chứng thu được gồm: 01 phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa; 02 loa điện tử màu xanh; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A13; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu vàng, hiện đang được nhập kho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa chờ xử lý.
* Tại bản Cáo trạng số: 130/CT-VKS ngày 26/02/2024, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa đã truy tố các bị cáo Phạm DC, Phạm NH, Nguyễn HT về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 255 của Bộ luật hình sự.
Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa tại phiên tòa luận tội đối với các bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Phạm DC, Phạm NH, Nguyễn HT phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 255; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm DC từ 30 đến 36 tháng tù. Xử phạt bị cáo Phạm NH từ 30 đến 36 tháng tù. Xử phạt bị cáo Nguyễn HT từ 30 đến 36 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.
Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 02 loa điện tử màu xanh; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A13 thu giữ ở phòng của Nguyễn HT; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu vàng thu giữ ở phòng của Phạm DC là phương tiện các bị cáo sử dụng để tăng hưng phấn sau khi sử dụng ma túy. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa.
Về án phí: Buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Tại phiên toà, các bị cáo Phạm DC, Phạm NH, Nguyễn HT đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo đã thống nhất với lời khai của người liên quan, người chứng kiến và những người tham gia tố tụng khác về hành vi đã thực hiện, thời gian, địa điểm, vật chứng thu được và các chứng cứ khác phản ánh tại hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 12/12/2023, tại quán Zone 8, ở số 08 Cao Thắng, phường Điện Biên, thành phố Thanh Hóa, Phạm DC đã tổ chức cho Nguyễn HT sử dụng trái phép chất ma túy, Nguyễn HT đã tổ chức cho Phạm NH sử dụng trái phép chất ma túy. Sau khi sử dụng ma túy Cường, Tuyết và Hiệu đến khách sạn Kim Chung nghỉ thì bị Tổ công tác Công an thành phố Thanh Hóa kiểm tra hành chính, phát hiện và lập biên bản về hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, đồng thời thu giữ số vật chứng có liên quan.
Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa truy tố các bị cáo Phạm DC, Phạm NH, Nguyễn HT về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 255 của Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử thấy rằng: Đây là vụ án có tính chất rất nghiêm trọng, bởi hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, là vấn đề đang rất quan tâm trong xã hội hiện nay. Ma túy đã làm cho nhiều thế hệ, nhiều gia đình, nhiều người vi phạm pháp luật, làm xói mòn về đạo đức, làm suy thoái về giống nòi, là nguyên nhân dẫn tới làm phát sinh nhiều tội phạm khác. Bản thân các bị cáo phải là người hiểu rõ nhất về tác hại của ma túy đối với sức khỏe, nhân cách, kinh tế, hạnh phúc gia đình và hậu quả khôn lường, nhưng các bị cáo không ý thức được những điều đó, mà vẫn tổ chức cho người khác sử dụng. Vì vậy, cần có đường lối xử lý nghiêm khắc đối với các bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Xét vị trí, vai trò của các bị cáo: Đây là vụ án với vai trò là đồng phạm giản đơn. Phạm DC là người có vị trí đứng đầu vụ án, bởi Cường là người khởi xướng cho Nguyễn HT sử dụng trái phép chất ma túy, chuẩn bị ma túy (thuốc lắc) đưa cho Tuyết. Nguyễn HT là người ở vị trí, vai trò thứ hai, đưa ma túy (thuốc lắc) cho Phạm NH cùng sử dụng, rồi đến Phạm NH là người tiếp nhận ma túy, thực hành cho hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Cho nên, trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Cường phải chịu ở mức cao hơn bị cáo Tuyết và Hiệu.
[5] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Các bị cáo Phạm DC, Phạm NH, Nguyễn HT là những người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội. Cho nên, các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Các bị cáo đều tự nguyện ra đầu thú hành vi phạm tội. Bị cáo Cường có bố được tặng nhiều Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa về văn học, nghệ thuật; Bị cáo Tuyết có bố là người có công với Cách Mạng được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Ba; Bị cáo Hiệu có bố là người có công với Cách Mạng và là thương binh loại A. Cho nên, các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo Cường đang mắc bệnh Nhồi máu cơ tim cấp, tắc mạch vành đã đặt Stent, nên cần được xem xét khi quyết định hình phạt. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6] Từ những nhận xét đánh giá trên, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành công dân tốt, biết chấp hành pháp luật.
[7] Khi quyết định hình phạt, xét thấy các bị cáo thuộc đối tượng sử dụng chất ma túy, không có việc làm, không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 255 của Bộ luật hình sự.
[8] Về vật chứng của vụ án: Cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 02 loa điện tử màu xanh; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A13; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu vàng, là phương tiện các bị cáo sử dụng để tăng hưng phấn sau khi sử dụng ma túy. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa. Số vật chứng trên theo biên bản giao nhận vật chứng tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.
[9] Về án phí: Buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 255; Điều 17; khoản 1 Điều 47; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
* Tuyên bố: Các bị cáo Phạm DC, Phạm NH, Nguyễn HT phạm tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy".
* Xử phạt:
1. Bị cáo Phạm DC 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/12/2023 đến ngày 01/02/2024.
2. Bị cáo Phạm NH 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/12/2023.
3. Bị cáo Nguyễn HT 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/12/2023.
* Về xử lý vật chứng: Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 02 loa điện tử màu xanh; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A13; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu vàng. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa. Số vật chứng trên theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 118/2024/THA vào hồi 15 giờ 00 phút ngày 28 tháng 02 năm 2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
* Về án phí: Buộc các bị cáo Phạm DC, Phạm NH, Nguyễn HT mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
* Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 181/2024/HS-ST
Số hiệu: | 181/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về