Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 17/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ K, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 17/2024/HS-ST NGÀY 21/02/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 02 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã K, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2024/HSST ngày 31 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2024/QĐXXST-HS ngày 05/02/2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Duy K1, sinh năm 1996; tại K, Hải Dương; nơi cư trú: Khu dân cư B, phường D, thị xã K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Danh V1 (đã chết) và bà Phạm Thị C2; gia đình có 03 anh em, bị cáo thứ hai; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 15/10/2023, đến ngày 21/10/2023 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Hải Dương cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Anh Lê Văn H1, anh Nguyễn Mạnh C1. Đều vắng mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 14/10/2023, Phạm Duy K1 nảy sinh ý định đi mua ma túy tổng hợp (còn gọi là “đá”) về sử dụng nên đã thuê xe ôm đến khu vực chợ Tử Lạc thuộc phường Minh Tân, thị xã K. Tại đây, K1 gặp và hỏi mua được của 01 người đàn ông (không rõ tên, tuổi) 01 túi ma túy (có đặc điểm là túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng) với giá 300.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, K1 thuê xe ôm đi về nhà.

Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, khi về đến nhà, K1 đi vào phòng ngủ của mình lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy đặt xuống nền nhà rồi đổ chất ma túy vừa mua được vào bên trong coóng thủy tinh, dùng bật lửa gas hơ nóng coóng, dùng ống nhựa để hút một mình.

Khoảng hơn 23 giờ cùng ngày, Lê Văn H1, sinh năm 1993, trú tại: phường D, thị xã K, tỉnh Hải Dương đi bộ đến nhà K1 chơi. H1 thấy K1 đang sử dụng ma túy nên xin K1 cho sử dụng cùng, K1 đồng ý. H1 ngồi xuống nền nhà tự lấy coóng sử dụng ma túy; lúc này, Nguyễn Mạnh C1, sinh năm 1991, trú tại: phường Phú Thứ, thị xã K, tỉnh Hải Dương (em họ của K1) đang chơi ở nhà K1 đi vào thì thấy K1, H1 đang sử dụng ma túy. Cầm hỏi K1 cho sử dụng ma túy cùng, K1 đồng ý. Cầm ngồi xuống nền nhà tự lấy coóng có ma túy sử dụng. Cả ba cùng nhau sử dụng ma túy trong phòng ngủ của K1 đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Tổ công tác thuộc công an phường D phát hiện, bắt quả tang, thu giữ: 01 chai nhựa nắp màu trắng gắn 01 coóng thủy tinh bên trong bầu coóng bám dính chất tinh thể màu trắng và 01 ống hút nhựa màu hồng dài khoảng 40 cm, 02 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (1x2) cm bên trong đều bám dính chất tinh thể màu trắng (đều được niêm phong trong hộp bìa catton ký hiệu M1), 01 bật lửa gas màu đỏ. Đến 11 giờ 30 phút, ngày 15/10/2023, Công an phường D đã bàn giao hồ sơ vụ án, các đối tượng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thị xã K để giải quyết theo thẩm quyền. Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thị xã K tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Duy K1, kết quả không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Tại Kết luận giám định số 503/KL-KTHS ngày 17/10/2023, Phòng kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất tinh thể màu trắng bám dính bên trong coóng thủy tinh, được niêm phong trong hộp bìa catton ký hiệu M1, gửi đến giám định, là ma túy, loại Methamphetamine, lượng mẫu bám dính rất nhỏ nên không xác định được khối lượng; chất tinh thể màu trắng bám dính bên trong 02 túi ni lông màu trắng, được niêm phong trong hộp bìa catton ký hiệu M1, gửi đến giám định, là ma túy, loại Methamphetamine, lượng mẫu bám dính rất nhỏ nên không xác định được khối lượng. Hoàn lại đối tượng giám định gồm: 01 chai nhựa nắp màu trắng gắn 01 coóng thủy tinh và 01 ống hút nhựa màu hồng, 02 vỏ túi nilong màu trắng, 01 bật lửa gas màu đỏ.

Ngày 15/10/2023, Trạm y tế phường D tiến hành test thử ma túy đối với Phạm Duy K1, Lê Văn H1, Nguyễn Mạnh C1, kết quả: Phạm Duy K1, Lê Văn H1, Nguyễn Mạnh C1 đều dương tính với ma túy loại Methamphetamine-Đã sử dụng ma túy loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 30 tháng 01 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân (Viết tắt: VKSND) thị xã K, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Phạm Duy K1 về tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự (Viết tắt: BLHS).

Tại phiên tòa:

- VKSND thị xã K giữ nguyên quyết định truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử (Viết tắt: HĐXX): Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của BLHS; xử phạt bị cáo Phạm Duy K1 từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo; về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu huỷ: 01 chai nhựa, nắp màu trắng gắn 01 coóng thủy tinh; 01 ống hút nhựa màu hồng; 02 vỏ túi nilong màu trắng; 01 bật lửa gas màu đỏ; về án phí: bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo Phạm Duy K1 khai nhận: Khoảng 22 giờ ngày 14/10/2023, do có nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo đã thuê xe ôm của người không quen biết đến khu vực chợ Tử Lạc, phường Minh Tân, thị xã K mua được 300.000đ ma túy "đá" của một người đàn ông không quen biết rồi mang về chỗ ở để sử dụng. Quá trình bị cáo sử dụng ma túy có Lê Văn H1, Nguyễn Mạnh C1 đến chơi, xin sử dụng và bị cáo đã đồng ý cho H1, Cầm sử dụng ma túy cùng. Dụng cụ mà bị cáo và H1, Cầm sử dụng ma túy gồm: 01 chai nhựa, nắp màu trắng gắn 01 coóng thủy tinh, 01 ống hút nhựa màu hồng là của bị cáo chuẩn bị từ trước. H1, Cầm không biết việc bị cáo đi mua ma túy về sử dụng và không phải đóng góp tiền để được sử dụng ma túy; bị cáo đang sống cùng mẹ đẻ là bà Phạm Thị C. Ngôi nhà mà bị cáo cùng với H1, Cầm sử dụng ma túy thuộc quyền sở hữu của mẹ bị cáo. Mẹ bị cáo không biết việc bị cáo và H1, Cầm sử dụng ma túy tại chỗ ở của mình. Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Bị cáo hối hận về hành vi phạm tội của mình và đề nghị HĐXX xem xét xử phạt bị cáo ở mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về các hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS.

[2]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định, Kết quả test ma túy và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ, ngày 14/10/2023, tại chỗ ở của mình thuộc khu dân cư B, phường D, thị xã K, tỉnh Hải Dương, Phạm Duy K1 có hành vi cung cấp chất ma túy, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy cho Lê Văn H1 và Nguyễn Mạnh C1 sử dụng trái phép chất ma túy. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Công an phường D phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

[3]. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tổ chức sử dụng trái phép là vi phạm pháp luật, song vì thái độ coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý tổ chức cho Lê Văn H1 và Nguyễn Mạnh C1 sử dụng trái phép chất ma túy tại chỗ ở cùng mình. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của BLHS. Như vậy, Quyết định truy tố của VKSND thị xã K đối với bị cáo là có căn cứ.

[4]. Hành vi của bị cáo có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, chế độ quản lý đặc biệt đối với chất ma tuý của Nhà nước nên HĐXX thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại trại giam, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống chung của xã hội một thời gian thì mới đủ tác dụng trừng trị, giáo dục bị cáo trở thành người tốt và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[5]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được H1 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản có giá trị nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]. Về xử lý vật chứng: 01 chai nhựa, nắp màu trắng gắn 01 coóng thủy tinh; 01 ống hút nhựa màu hồng; 01 bật lửa gas màu đỏ; 02 vỏ túi nilong màu trắng là công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội, vật không còn giá trị sử dụng nay tịch thu cho tiêu hủy; đối đĩa CD chứa dữ liệu hỏi cung bị cáo là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội nên được lưu vào hồ sơ vụ án.

[8]. Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Trong vụ án này, đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Phạm Duy K1, Lê Văn H1 và Nguyễn Mạnh C1 đã bị Trưởng Công an thị xã K ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính; đối với người đàn ông bán chất ma túy cho Phạm Duy K1 và 02 người đàn ông lái xe ôm chở K1, tài liệu điều tra không xác định được là ai, ở đâu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an thị xã K không có căn cứ để xử lý.

[10]. Phạm Duy K1 có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy tại chỗ ở của mình, thuộc thửa đất số 348, Tờ bản đồ số 04, địa chỉ: Khu dân cư B, phường D, thị xã K, tỉnh Hải Dương. Thửa đất này là tài sản hợp pháp bà Phạm Thị C. Bà Phạm Thị C không biết hành vi phạm tội của K1 nên Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an thị xã K không xem xét, xử lý đối với bà C là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của BLHS.

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Duy K1 phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Duy K1 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, ngày 15/10/2023.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của BLHS; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của BLTTHS.

3.1. Tịch thu và tiêu huỷ: 01 chai nhựa, nắp màu trắng gắn 01 coóng thủy tinh; 01 ống hút nhựa màu hồng; 01 bật lửa gas màu đỏ; 02 vỏ túi nilong màu trắng (Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã K và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã K, tỉnh Hải Dương ngày 19/02/2024).

3.2. Lưu hồ sơ đĩa CD chứa file ghi âm hỏi cung bị cáo Phạm Duy K1.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS; Điều 6; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về… án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phạm Duy K1 phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 17/2024/HS-ST

Số hiệu:17/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về