Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 16/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 16/2024/HS-ST NGÀY 13/03/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 3 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, thành phố H và điểm cầu thành phần: Phòng xét xử trực tuyến Trại tạm giam, Công an thành phố H, xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2024/TLST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2024/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2024, đối với các bị cáo:

1. Lưu Văn H, sinh ngày 08 tháng 01 năm 1992, nơi sinh: H, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Q, xã Q, huyện A, thành phố H; nơi ở: Thôn C, xã Q, huyện A, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Văn L (đã chết) và con bà Nguyễn Thị H; bị cáo chưa có vợ con; tiền sự, tiền án: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 05 tháng 12 năm 2023 tại Trại tạm giam Công an thành phố H; có mặt.

2. Nguyễn Đức T, sinh ngày 22 tháng 8 năm 2001, nơi sinh: H, nơi cư trú: Thôn Q, xã Q, huyện A, thành phố H, nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và con bà Lê Thị S; bị cáo chưa có vợ con;

tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 05 tháng 12 năm 2023 tại Trại tạm giam Công an thành phố H; có mặt.

3. Lê Văn P, sinh ngày 26 tháng 6 năm 1994, nơi sinh: H, nơi cư trú: Thôn Q, xã Q, huyện A, thành phố H, nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn L và con bà Bùi Thị P; bị cáo có vợ là Vũ Thị H, sinh năm 1998 và có 01 con sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 05 tháng 12 năm 2023 tại Trại tạm giam Công an thành phố H; có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Dương Đức T; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nhận được tin báo từ quần chúng nhân dân tố giác các đối tượng có biểu hiện tụ tập sử dụng trái phép chất ma túy, khoảng 15 giờ ngày 14 tháng 11 năm 2023, Công an xã Quang Trung, huyện A kiểm tra, phát hiện tại nơi ở của Lưu Văn H ở thôn C, xã Q, huyện A có 03 đối tượng đã sử dụng trái phép chất ma túy, gồm: Lưu Văn H, Lê Văn P và Nguyễn Đức T. Thu giữ trên giường các đối tượng đang ngồi có 01 tờ giấy bạc kích thước (21 x 8,5)cm, bề mặt bám tạp chất màu đen; 01 ống hút dài 18cm, đường kính 0,5cm bằng nhựa có kẻ sọc màu đỏ; 01 đoạn ống nhựa dài 1,8cm, đường kính 01cm màu xanh, 01 tờ giấy dạng tiền Trung Quốc có chữ “10 YUAN” (tất cả niêm phong vào 01 mẫu, ký hiệu M) và 01 bật lửa gas màu đỏ nhãn hiệu Hoa Việt. H, P, T khai nhận đây là các dụng cụ mà 03 người vừa dùng để sử dụng chất ma túy đá. Tạm giữ 01 xe môtô Honda Wave BKS:

15D1-xxxxx của Nguyễn Đức T, 01 xe môtô Honda Wave BKS: 15D1-337.30 của Lê Văn P. Công an xã Quang Trung đã lập biên bản vụ việc, thu giữ niêm phong vật chứng.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A khám xét khẩn cấp nơi ở của các đối tượng nhưng không thu giữ được tài liệu, đồ vật liên quan.

Tại kết luận giám định số 930/KL-KTHS ngày 20 tháng 11 năm 2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H kết luận: “ 01 ống hút nhựa màu trắng kẻ đỏ, 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh, 01 tờ giấy dạng tiền có các chữ “10YUAN”…SIY50559943, 01 tờ giấy bạc, trên bề mặt tờ giấy có bám dính tạp chất màu đen của mẫu M gửi giám định tìm thấy chất ma túy, loại Methamphetamine, không đủ điều kiện xác định khối lượng ma túy. Mẫu nước tiểu của Lưu Văn H tìm thấy chất ma túy loại Methamphetamine. Các mẫu nước tiểu của Nguyễn Đức T và Lê Văn P gửi giám định đều tìm thấy chất ma túy, loại Methamphetamine và Ketamine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A, các đối tượng khai nhận: Trưa ngày 14 tháng 11 năm 2023, Lê Văn P và Nguyễn Đức T ăn cơm tại nơi ở của Lưu Văn H, đến khoảng 13 giờ cùng ngày thì T rủ mọi người sử dụng ma túy đá, H đồng ý. Sau đó T đi xe mô tô BKS: 15D1-xxxxx, P đi xe mô tô BKS:

15D1-337.30 cùng đi xin việc làm ở Khu công nghiệp Tràng Duệ nhưng không được nên cả hai quay về một nhà gần nghĩa trang bờ đê xã Trường Thành, huyện A để mua ma túy đá. T gọi thì một người phụ nữ không quen biết đeo khẩu trang đi ra cổng. P bỏ ra 200.000 đồng, T bỏ ra 60.000 đồng ném vào sân cho người phụ nữ, người này ném ra cho T, P 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh được hàn kín hai đầu bên trong chứa ma túy đá. P cầm lấy, cùng T đi về nhà H. Khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, P và T về đến nhà H. P bỏ đoạn ống nhựa chứa ma túy đá ra. H đưa cho P vỏ bao thuốc lá, bảo P bóc lấy giấy bạc, đổ ma túy đá lên trên để mọi người sử dụng. H đưa bật lửa gas cho P châm lửa, hơ ma túy đá thành khói bốc lên cho mọi người cùng sử dụng bằng cách hút. Sau đó, P đưa cho T 01 tờ tiền Trung Quốc mệnh giá 10 YUAN, T cuộn lại thành dạng ống. P tiếp tục bật lửa, hơ giấy bạc còn ma túy đá ở trên để T cầm tờ 10 YUAN đã cuộn hút khói đầu tiên. Cả ba người hút được vài lần thì tờ 10 YUAN bị ẩm, T đi ra cổng nhặt được 01 ống hút nhựa có kẻ sọc màu đỏ mang vào cùng mọi người tiếp tục sử dụng hết ma túy đá. Sau đó cả ba người ngồi nói chuyện đến khoảng 15 giờ cùng ngày thì bị lực lượng Công an phát hiện, kiểm tra lập biên bản vụ việc.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Lưu Văn H, Nguyễn Đức T và Lê Văn P đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Bản Cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 25 tháng 01 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A, thành phố H truy tố Lưu Văn H, Nguyễn Đức T và Lê Văn P về tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm nhân dân huyện A vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Lưu Văn H, Nguyễn Đức T và Lê Văn P phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51 (bị cáo T H thêm khoản 2 Điều 51), Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự xử phạt: Lưu Văn H, Nguyễn Đức T và Lê Văn P mỗi bị cáo từ 08 năm đến 09 năm tù.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Lưu Văn H không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung. Đối với bị cáo Nguyễn Đức T và bị cáo Lê Văn P có tài sản riêng, đề nghị xử phạt mỗi bị cáo từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng sung công quỹ Nhà nước.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 ống hút nhựa màu trắng kẻ đỏ, 01 đoạn ống hút nhự màu xanh và 01 tờ giấy bạc được niêm phong lại trong một bì giấy, dấu niêm phong số 930MT/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H và 01 tờ giấy bạc dạng tiền có các chữ "10 YUAN"...SIY50559943 được niêm phong lại trong một bì giấy, dấu niêm phong số 930MT-A/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H. Đối với 01 xe môtô Honda Wave BKS: 15D1-xxxxx đăng kí tên Nguyễn Đức T và 01 xe môtô Honda Wave BKS: 15D1-337.30 đăng kí tên Lê Văn P, đề nghị trả lại bị cáo T và bị cáo P nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện A, thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện A thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai của Lưu Văn H, Nguyễn Đức T và Lê Văn P tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với Biên bản vụ việc ngày 14 tháng 11 năm 2023, bản kết luận giám định số 930/KL-KTHS ngày 20 tháng 11 năm 2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H cũng như tài liệu khác có trong hồ sơ đã được xem xét công khai tại phiên tòa. Nên đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ ngày 14 tháng 11 năm 2023, Nguyễn Đức T là người khởi xướng cùng Lê Văn P góp tiền đi mua ma túy, loại Methamphetamine về nơi ở của Lưu Văn H để sử dụng. Sau đó T, P, H cùng nhau sử dụng ma tuý đến khoảng 15 giờ cùng ngày thì bị Công an xã Quang Trung kiểm tra, phát hiện lập biên bản vụ việc. Bị cáo Nguyễn Đức T và bị cáo Lê Văn P là người cung cấp ma tuý, bị cáo Lưu Văn H đồng ý cho T và P sử dụng ma tuý tại nơi ở của mình và cả 03 bị cáo đều tích cực chuẩn bị dụng cụ để cùng sử dụng ma tuý. Căn cứ hướng dẫn tại phần 1 Mục 1 Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân Tối Cao quy định cụ thể: “...tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được hiểu là thực hiện một trong các hành vi bố trí, sắp xếp, điều hành con người, phương tiện; cung cấp ma túy, điểm, phương tiện, dụng cụ...để thực hiện việc sử dụng trái phép chất ma túy...”. Do đó hành vi của Nguyễn Đức T, Lê Văn P, Lưu Văn H phạm tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự. Như vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện A, thành phố H truy tố các bị Lưu Văn H, Nguyễn Đức T và Lê Văn P là có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết định khung hình phạt: Nguyễn Đức T và Lê Văn P cung cấp chất ma tuý, Lưu Văn H đồng ý và cùng T, P sử dụng trái phép chất ma tuý tại nơi ở của mình nên các bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng định khung hình phạt quy định tại điểm b khoản 2 khoản 255 Bộ luật Hình sự "...đối với 02 người trở lên".

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm các quy định về phòng chống, kiểm soát chất ma túy, cung cấp ma túy đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác làm ảnh H đến sức khoẻ, tính mạng con người, gây mất trật tự trị an xã hội. Do đó cần phải xử lý nghiêm, cách ly các bị cáo ra khởi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng để cải tạo, giáo dục các bị cáo và đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung.

- Về vai trò, vị trí của các bị cáo: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo Nguyễn Đức T là người khởi xướng và bỏ ra số tiền 60.000 đồng, bị cáo Lê Văn P là người giúp sức tích cực và bỏ ra 200.000 đồng cùng T đi mua ma tuý, bị cáo H đồng ý cho bị cáo T và bị cáo P sử dụng ma tuý tại nơi ở của mình, các bị cáo đều tích cực chuẩn bị dụng cụ để cùng nhau thực hiện việc sử dụng chất ma tuý trái phép. Do vậy các bị cáo đều giữ vị trí, vai trò ngang nhau.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo phạm tội không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo đều được H 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Nguyễn Đức T có thời gian phục vụ trong quân đội từ tháng 02 năm 2019 đến ngày 18 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định về việc cho quân nhân xuất ngũ số 35/QĐ-TĐ ngày 15 tháng 01 năm 2021 nên bị cáo được H thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về hình phạt bổ sung: Đối với bị cáo Nguyễn Đức T và bị cáo Lê Văn P có tài sản riêng nên cần xử phạt mỗi bị cáo 10.000.000 đồng. Bị cáo Lưu Văn H không có việc làm ổn định và không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về vật chứng:

[8.1] Đối với 01 ống hút nhựa màu trắng kẻ đỏ, 01 đoạn ống hút nhự màu xanh và 01 tờ giấy bạc được niêm phong lại trong một bì giấy, dấu niêm phong số 930MT/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H và 01 tờ giấy bạc dạng tiền có các chữ "10 YUAN"...SIY50559943 được niêm phong lại trong một bì giấy, dấu niêm phong số 930MT-A/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H, đây là vật chứng vụ án cần tịch thu tiêu huỷ.

[8.2] Đối với 01 xe môtô Honda Wave BKS: 15D1-xxxxx đăng ký tên Nguyễn Đức T và 01 xe môtô Honda Wave BKS: 15D1-337.30 đăng ký tên Lê Văn P, đây là tài sản của bị cáo T và bị cáo P trả lại 02 bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[9] Nguyễn Đức T và Lê Văn P khai mua ma túy của người phụ nữ không quen biết tại ngôi nhà gần nghĩa trang bờ đê xã Trường Thành. Nguyễn Đức T chỉ nhà, xác định đó là nhà của Nguyễn Đình Vũ đang bị tạm giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, gia đình Vũ không có ai ở nhà. Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ người phụ nữ bán trái phép ma túy cho T và P để xử lý sau.

[10] Về án phí: Bị cáo Lưu Văn H, Nguyễn Đức T và Lê Văn P phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51 (Bị cáo T được áp dụng thêm khoản 2 Điều 51), Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lưu Văn H, bị cáo Nguyễn Đức T và bị cáo Lê Văn P phạm tội: "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Xử phạt:

Bị cáo Lưu Văn H 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giam là ngày 05 tháng 12 năm 2023.

Bị cáo Lê Văn P 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giam là ngày 05 tháng 12 năm 2023.

Bị cáo Nguyễn Đức T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giam là ngày 05 tháng 12 năm 2023.

- Về hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Nguyễn Đức T và bị cáo Lê Văn P mỗi bị cáo 10.000.000đ (mười triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì giấy niêm phong, dấu niêm phong số 930MT/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H bên trong chứa các mẫu vật, vỏ bao gói còn lại sau giám định và 01 bì giấy niêm phong, dấu niêm phong số 930MT-A/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H bên trong chứa các mẫu vật, vỏ bao gói còn lại sau giám định.

+ Trả lại bị cáo Nguyễn Đức T 01 xe môtô Honda Wave BKS: 15D1-xxxxx nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

+ Trả lại bị cáo Lê Văn P 01 xe môtô Honda Wave BKS: 15D1-337.3020 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 31 tháng 01 năm 2024).

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lưu Văn H, Nguyễn Đức T và Lê Văn P mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo bản án: Các bị cáo Lưu Văn H, Nguyễn Đức T và Lê Văn P được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 16/2024/HS-ST

Số hiệu:16/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về