TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 146/2024/HS-PT NGÀY 04/03/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 04 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 1008/2023/TLPT- HS ngày 15 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Đ X do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 269/2023/HS-ST ngày 02/11/2023 của Tòa án nhân dân quận H1, thành phố H.
* Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Đ X, sinh năm 1975.
ĐKHKTT: T8 Phòng 0802, Tòa nhà T, số 458, phố M, phường V, quận H, thành phố H; nơi cư trú: Phòng 2901, Tòa nhà Park 7 T, phường M, quận H1, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Mạnh C và bà D1 Thị L (bị cáo khai tại phiên tòa bà Liên đã chết năm 2017); có vợ Cao Thị Tuyết M (đã ly hôn) và 02 con (con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2016); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không;
Danh chỉ bản số 000000411 lập ngày 31/5/2023 tại Công an quận H1, thành phố H.
Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/5/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 Công an thành phố H; có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 20/5/2023, Đào Duy D1 thuê phòng 12A07, tòa nhà Park 10 T, phường M, quận H1, thành phố H, thời hạn thuê 02 ngày 21 và 22/5/2023, với giá 1.200.000 đồng/ngày). Khoảng 08 giờ ngày 21/5/2023, D1 mang theo loa, đèn nháy và rủ Nguyễn Hải L sinh năm 1988, trú tại số 16, phố Võ Thị Sáu, phường Quang Trung, quận Đ, thành phố H và Nguyễn Đ X (tên khác: Đ) đến phòng thuê nêu trên để sử dụng ma túy. Khi đến, Nguyễn Đ X mang theo 02 viên ma túy dạng “kẹo” và ma túy loại Ketamine; D1 cuốn ống hút, lấy thẻ nhựa, đĩa thủy tinh giúp X “xào” Ketamine để D1, X và L cùng nhau sử dụng. Đến khoảng 13 giờ 40 phút cùng ngày, D1 gọi qua mạng xã hội Zalo cho đối tượng phụ nữ D1 lưu tên là “Kẹo H” để mua thêm 10 viên ma túy dạng “kẹo” với giá 2.700.000 đồng. D1 chuyển khoản tiền mua ma túy qua tài khoản số 2980xxxx của Ngân hàng ACB, hẹn đối tượng bán ma túy thuê người vận chuyển (shipper) đem đến sảnh tòa nhà Park 10 T giao cho D1. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày X đi về. Tiếp đó, D1 gọi thêm các bạn của D1 đến, gồm: Hoàng Văn H (sinh năm 1992, trú tại thôn Pò Mơ, xã Mai Pha, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn); Nguyễn Văn D1 (sinh năm 1997, trú tại tổ 3, thị trấn X Mai, huyện Chương Mỹ, thành phố H); Tống Quốc Bảo (sinh năm 2001, trú tại Phòng 2615, tòa nhà Park 10 T, phường M, quận H1, thành phố H); Hoa Phan A (sinh năm 1991, trú tại số 3, phố Hội Vũ, phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm, thành phố H). Từ khoảng 22 giờ, các bạn của D1 đến và cùng nhau sử dụng ma túy loại Ketamine do X mang đến nhưng chưa sử dụng hết và ma túy dạng “kẹo” do D1 mua. Đến 00 giờ 35 phút ngày 22/5/2023, một người bạn nữa của D1 là D1 Thành L (sinh năm 1992, trú tại tổ 22, phường V, quận H, thành phố H) đến nhưng ngồi ở phòng khách, không tham gia sử dụng ma túy cùng nhóm đối tượng trên. Đến 01 giờ 15 phút ngày 22/5/2023, lực lượng Công an kiểm tra hành chính tại phòng 12A07 nêu trên, phát hiện các đối tượng có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên lập biên bản kiểm tra hành chính, thu giữ và niêm phong các vật chứng liên quan, đưa các đối tượng về bàn giao Cơ quan điều tra để giải quyết.
Trên cơ sở lời khai, nhận dạng của các đối tượng có mặt tại hiện trường và vật chứng đã thu giữ, Cơ quan điều tra đa ra lệnh bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Đào Duy D1 và Nguyễn Đ X để phục vụ việc điều tra.
Vật chứng của vụ án đã thu giữ gồm: 01 đĩa thủy tinh đường kính khoảng 25 cm bên trên mặt đĩa có tinh thể màu trắng (lực lượng công an đã thu giữ số chất tinh thể màu trắng trên mặt đĩa vào 01 túi ni-lông kích thước (5x8,5)cm); 01 thẻ nhựa màu đen; 01 ống hút bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng; 01 lọ màu trắng cao khoảng 7,5 cm đường kính đáy khoảng 4 cm bên trong lọ có chứa 03 viên nén hình tròn màu xanh và 01 túi ni-lông kích thước khoảng (3x3)cm chứa tinh thể màu trắng; 01 loa màu đen; 01 đèn nháy màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng imei 358686329256709 của Bùi Duy D1 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xanh của Nguyễn Đ X (loa, đèn nháy và điện thoại đều đã qua sử dụng).
Cơ quan điều tra đã quyết định trưng cầu giám định đối với số vật chứng nghi ma túy thu giữ, niêm phong nêu trên. Tại Kết luận giám định số 3343/KLGĐ-PC09 ngày 30/5/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H:
- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon kích thước (8,5x5)cm (thu được trên mặt đĩa thủy tinh có đường kính 25cm) là ma túy loại Ketamine, khối lượng 0,788 gam;
- 01 đĩa thủy tinh đường kính 25cm, 01 thẻ nhựa màu đen, 01 ống hút bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 VND đều có dính ma túy loại Ketamine.
- 01 lọ nhựa màu trắng kích thước (7,5x4)cm bên trong có: 03 viên nén hình tròn màu xanh đều là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng 1,003 gam; Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni-lông là ma túy loại Ketamine, khối lượng 1,514 gam.
Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ trong vụ án, Đào Duy D1 khai mua ma túy dạng “Kẹo” (MDMA) của một đối tượng phụ nữ, Nguyễn Đ X khai số ma túy Ketamine do X mang đến mua từ cuối năm 2022 của một đối tượng đàn ông. Tuy nhiên D1 và X đều không biết nhân thân các đối tượng bán ma túy. Ngoài lời khai của D1, X nêu trên, không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh, nên không có cơ sở để xác minh làm rõ. Toàn bộ số vật chứng đã thu giữ nêu trên được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự quận H1, để chờ quyết định xử lý.
Kết quả xét nghiệm Đào Duy D1, Nguyễn Đ X, Hoàng Văn H, Nguyễn Văn D1, Tống Quốc Bảo, Hoa Phan A và Nguyễn Hải L đều dương tính với ma túy, do đó Công an quận H1 đã quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng về hành vi nêu trên.
Đối với D1 Thành L, kết quả xét nghiệm âm tính với chất ma túy và không thừa nhận có sử dụng ma túy cùng các đối tượng trên. Kết quả xác minh người đứng tên sở hữu căn hộ 12A07, tòa nhà Park 10 T là anh Trịnh X Quý (sinh năm 1991, trú tại: Tổ 4, phường Hợp Giang, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng). A Quý cho chị Đoàn Thái Hà (sinh năm 1979, trú tại P501 Đ1, tập thể phường Nam Đồng, quận Đống Đa, thành phố H) thuê căn hộ trên. Sau đó, do không sử dụng nên chị Hà đã cho D1 thuê nhưng không biết các đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Kết quả xác minh người đứng tên đăng ký số tài khoản 2980xxxx Ngân hàng ACB là anh Nguyễn Hùng C (sinh năm 1985, trú tại: Tổ 31, Đại Kim, H1, H) là tài khoản nhận số tiền 2.700.000 đồng mua ma túy của Đào Duy D1. Tuy nhiên, anh C trình bày không đăng ký, sử dụng tài khoản ngân hàng ACB. Đầu năm 2021, anh C bị mất căn cước công dân và đã xin được cấp lại, anh không biết có bị người khác sử dụng căn cước công dân bị mất để mở tài khoản ngân hàng hay không. Quá trình điều tra không chứng minh được anh D1 Thành L, anh Trịnh X Quý, chị Đoàn Thái Hà và anh Nguyễn Hùng C có hành vi vi phạm liên quan đến vụ án nên không có cơ sở để đề cập xử lý.
Quá trình điều tra, Đào Duy D1 và Nguyễn Đ X đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án.
Tại bản Cáo trạng số 276/CT-VKS ngày 13/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận H1, thành phố H đã truy tố bị cáo Đào Duy D1 và bị cáo Nguyễn Đ X về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự.
Bản án hình sự sơ thẩm số 269/2023/HS-ST ngày 02/11/2023 của Tòa án nhân dân quận H1, thành phố H:
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Đ X 07 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 22/5/2023.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về tội danh, điều luật và mức hình phạt đối với bị cáo Đào Duy D1; tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 13/11/2023, bị cáo Nguyễn Đ X kháng cáo với nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Đ X thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, tỏ ra ăn năn hối cải. Ngoài ra bị cáo X trình bày, bị cáo đang sinh sống và làm việc tại thủ đô Praha, Tiệp Khắc, bị cáo thường xuyên qua lại giữa Tiệp Khắc và Việt Nam để làm việc, đồng thời chăm sóc bố của bị cáo, quá trình làm việc bị cáo tích cực tham gia thiện nguyện, đóng góp cho xã hội. Hiện nay 02 con của bị cáo đang sinh sống tại thủ đô Praha, Tiệp Khắc, không được chăm sóc, nuôi dưỡng đầy đủ. Bị cáo Nguyễn Đ X đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H nhận định:
Về hình thức kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đ X trong thời hạn luật định, đúng về chủ thể, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về nội dung kháng cáo:
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Nguyễn Đ X tại phiên tòa, có đủ cơ sở xác định: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Đ X về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, xem xét vai trò đồng phạm, mức độ tham gia phạm tội của bị cáo thì mức hình phạt 07 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử đã tuyên là có phần nghiêm khắc.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đ X và sửa quyết định của bản án sơ thẩm.
Cụ thể: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Đ X từ 06 năm – 06 năm 06 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 22/5/2023.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đ X trong thời hạn luật định, đúng về chủ thể, được Hội đồng xét xử chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2]Căn cứ vào lời khai của bị cáo Nguyễn Đ X, vật chứng thu được, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở kết luận:
Từ khoảng 08 giờ 00 phút ngày 21/5/2023, tại phòng 12A07, tòa nhà Park 10 T, phường M, quận H1, thành phố H, Đào Duy D1 đã có hành vi cung cấp địa điểm, cung cấp công cụ sử dụng ma túy, cung cấp ma túy, liên hệ, lôi kéo rủ Nguyễn Đ X, Nguyễn Hải L, Hoàng Văn H, Nguyễn Văn D1, Tống Quốc Bảo, Hoa Phan A sử dụng trái phép chất ma túy. Nguyễn Đ X có hành vi cung cấp ma túy để cùng Nguyễn Hải L, Đào Duy D1 sử dụng trái phép chất ma túy ngày 21/5/2023.
Hành vi của bị cáo Nguyễn Đ X đã cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” với tình tiết “Đối với 02 người trở lên”. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Đ X về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đ X, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội, gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho đời sống xã hội. Do đó, cần phải xử lý nghiêm bị cáo theo quy định của pháp luật để răn đe và phòng ngừa chung.
Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phù hợp.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Đ X không xuất trình tài liệu, chứng cứ mới. Tuy nhiên Hội đồng xét xử nhận thấy rằng, bị cáo Đỗ Duy D1 là người khởi xướng, chuẩn bị địa điểm, công cụ để tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Nguyễn Đ X mang 02 viên ma túy dạng “kẹo” và ma túy loại Ketamine đến để cùng D1 và Nguyễn Hải L sử dụng. Sau khi X ra về, D1 tiếp tục mua thêm 10 viên ma túy dạng kẹo và rủ 04 đối tượng khác đến để cùng sử dụng trái phép chất ma túy. Do đó xét về yếu tố đồng phạm và mức độ, tính chất tham gia phạm tội của Nguyễn Đ X là thấp hơn nhiều so với Đào Duy D1.
Ngoài ra nhân thân bị cáo Nguyễn Đ X chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo trực tiếp nuôi 02 con và phụng dưỡng bố của bị cáo nên Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xét mức hình phạt 07 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là có phần nghiêm khắc so với nhân thân, vai trò, tính chất, mức độ tham gia phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đ X, sửa quyết định của bản án sơ thẩm, áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo, vẫn đủ tác dụng răn đe, phòng ngừa chung, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội biết ăn năn, hối cải.
[4]Hội đồng xét xử sửa quyết định của bản án sơ thẩm nên bị cáo Nguyễn Đ X không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
[5]Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự:
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đ X và sửa Quyết định của bản án sơ thẩm:
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 58; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Đ X 06 (Sáu) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 22/5/2023.
2. Về án phí: áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Đ X không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 04/3/2024.
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 146/2024/HS-PT
Số hiệu: | 146/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về