Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 11/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT - TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 11/2024/HS-ST NGÀY 19/01/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 287/2023/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2024/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2024 đối với:

- Bị cáo:

Họ và tên: Trương Nguyễn Hoài S (Tý nhỏ), sinh ngày 25/12/1999, tại: Lâm Đồng. Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố 1, thị trấn D, huyện ĐD, tỉnh LĐ. Chỗ ở: Tổ dân phố 1, thị trấn D, huyện ĐD, tỉnh LĐ. Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không. Học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông: Trương Diệp A, sinh năm: 1967; Con bà: Nguyễn Thị T, sinh năm:

1974. Gia đình có 03 anh em, lớn nhất sinh năm 1993, bị cáo là nhỏ nhất.

Tiền án; Tiền sự: không Bị bắt ngày 06/7/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đà Lạt. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 23/3/2022, Vũ Quốc Anh T, Lê Hoàng Công L, Phạm Gia B ăn nhậu tại huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Trương Nguyễn Hoài S đến gặp Vũ Quốc Anh T tại đây và được Vũ Quốc Anh T đưa cho 01 hóa đơn nhờ S lên cửa hàng Thiên Tự Phước ở Phường 11, thành phố Đà Lạt để lấy tiền hàng số tiền 7.000.000đ giúp T. S đi xe mô tô lên Đà Lạt để lấy tiền hàng cho T, sau khi lấy được tiền hàng, S báo lại cho T đã lấy được tiền hàng rồi thì T nói S tiếp tục giữ số tiền trên giúp T.

Sau khi T, L, Gia B ăn nhậu tại Đơn Dương xong thì rủ nhau lên thành phố Đà Lạt hát Karaoke. B điều khiển xe ô tô hiệu Ford Focus màu bạc chở L đi theo sau, riêng T tiếp tục gọi điện thoại rủ Nguyễn Huỳnh Đức V và một người tên L1 (chưa rõ nhân thân lai lịch) rồi T điều khiển xe ô tô hiệu Fortuner chở V và L1 lên Đà Lạt. T nhờ S mua giúp T số Ketamin và thuốc lắc để đem đến quán Karaoke Amigo, đường Trần Khánh Dư, Phường 8, thành phố Đà Lạt.

Gia B và L đến Đà Lạt trước và đến hát tại quán karaoke Dubai trên đường Lý Tự Trọng, Phường 2, Đà Lạt. Trong lúc hát, L gọi tiếp viên là Trần Thị Thanh L2 vào rót bia, Gia B rủ Cún (Chưa rõ nhân thân lai lịch) và Võ V V1 đến hát tại quán.

Khi T chở L1 và V lên đến Đà Lạt, B gọi điện thoại cho T và nói đang hát tại karaoke Dubai nên T chở L1 và V qua karaoke Dubai. Khi T qua hát được khoảng 15 phút, T nói với tất cả mọi người đang hát gồm: L1, V, B, L, V1, L2 đến hát và sử dụng ma túy tại karaoke Amigo thì tất cả đều đồng ý theo lời mời của T.

Sau khi vào quán karaoke Amigo, tất cả vào phòng 401 của quán, Cún đi đón bạn gái của Cún là Ty và rủ thêm Hồ Khắc Thái B. Khoảng 30 phút sau, Trương Nguyễn Hoài S đến và đem vào phòng 01 gói nilong, bên trong có chứa ma túy. T nhận gói ma túy từ S rồi đưa Ketamine đến cửa phòng vệ sinh để “nấu”, Vũ thấy T đang chuẩn bị “nấu” Ketamine thì Vũ nói “để em nấu cho” thì T đưa gói Ketamine cho Vũ lấy chiếc đĩa đựng bánh kẹo trên bàn, hơ nóng đĩa rồi đổ ketamine vào, cà mịn, chia thành nhiều đường mảnh. Trong lúc Vũ nấu Ketamine thì Cún và Ty vào phòng, Ty dùng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng quấn thành ống hút để sử dụng Ketamine. Ngoài ra, các đối tượng còn gọi các tiếp viên của quán Karaoke vào bao gồm: Vi Thị Bích Th1, Hồ Thị Kim T1, Nguyễn Thị Diễm M1, Phan Thị H2. Những tiếp viên này vào phục vụ việc rót bia và cùng sử dụng ma túy. Một lúc sau, Hồ Khắc Thái B đến quán, Thái B vào phòng hát thấy nhiều người chưa quen biết nên bê đĩa Ketamine mời từng người trong phòng sử dụng để làm quen. Trong quá trình hát karaoke và sử dụng ma túy thì S, Cún, Ty và L1 đã bỏ về trước. Đến 22 giờ 15 cùng ngày, Công an thành phố Đà Lạt vào bắt quả tang các đối tượng đang có hành vi sử dụng ma túy gồm T, L, Gia B, V, Vũ, Thái B, Th1, T1, My, L2 và H2.

Tang vật được thu giữ: 01 lượng chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy được thu giữ trên chiếc đĩa màu trắng trên bàn phòng 401; 01 đĩa sứ, 01 ống hút được quấn bằng tờ tiền Polime mệnh giá 10.000 đồng, 01 thẻ nhựa màu vàng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 màu đen thu giữ của Phạm Gia B; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh thu giữ của Võ V Vũ; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 màu trắng thu giữ của Lê Hoàng Công L; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen và 01 Iphone X màu trắng thu giữ của Nguyễn Huỳnh Đức V; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh thu giữ của Hồ Khắc Thái B; 01 điện thoại di động hiệu Iphone Xsmax màu gold thu giữ của Hồ Thị Kim T1; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 màu xanh thu giữ của Trần Thị Thanh L2; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 pro màu gold thu giữ của Phan Thị H2; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 promax màu gold thu giữ của Nguyễn Thị Diễm M1; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 promax màu trắng thu giữ của Vi Thị Bích Th1.

Tại Kết L giám định số 304/GĐ-PC09 ngày 29/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng xác định: Mẫu chất bột đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,1641g (không phẩy một sáu bốn một gam), loại Methamphetamine và Ketamine.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Ketamine là chất ma túy nằm trong Danh mục III, STT: 35, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Sau khi phạm tội, Trương Nguyễn Hoài S bỏ trốn và bị truy nã, đến ngày 06 tháng 7 năm 2023 thì ra đầu thú.

Tại bản cáo trạng số 269/CT-VKSĐL-LĐ ngày 23/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt truy tố bị cáo Trương Nguyễn Hoài S về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại các điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Bị cáo không khiếu nại bản cáo trạng và khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

- Tuyên bố bị cáo Trương Nguyễn Hoài S phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng các điểm b, c Khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Trương Nguyễn Hoài S mức hình phạt từ 07 năm 06 tháng tù đến 08 năm 06 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

- Về án phí: Đề nghị buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo không có ý kiến tranh L.

Lời nói sau cùng của bị cáo tại phiên tòa: Bị cáo ăn năn hối hận và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh L tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình điều tra, tru y tố, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến thắc mắc hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã được tiến hành đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và vai trò của bị cáo trong vụ án: Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ khả năng nhận thức và biết rõ việc tàng trữ trái phép các chất ma túy, cung cấp ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ… để thực hiện việc sử dụng trái phép chất ma túy là những hành vi trái pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện.

Chiều ngày 23/3/2022, Vũ Quốc Anh T bàn bạc và thống nhất với Trương Nguyễn Hoài S (tên thường gọi là Tý nhỏ) đặt phòng và chuẩn bị “đồ” (nghĩa là ma túy) tại quán karaoke Amigo, số 44 Trần Khánh Dư, phường 8, thành phố Đà Lạt để sử dụng ma túy. T và S đã rủ thêm Lê Hoàng Công L, Phạm Gia B, Nguyễn Huỳnh Đức V, Trần Thị Thanh L2, Võ V Vũ, Cún (chưa rõ nhân thân lai lịch), Ty, Hồ Khắc Thái B và một người tên L1 (chưa rõ nhân thân lai lịch) đến quán Karaoke Amigo để hát karaoke và sử dụng ma túy. Ngoài ra, các đối tượng còn gọi các tiếp viên của quán Karaoke vào bao gồm: Vi Thị Bích Th1, Hồ Thị Kim T1, Nguyễn Thị Diễm M1, Phan Thị H2, những tiếp viên này vào phục vụ việc rót bia và cũng sử dụng ma túy.

Tại phòng 401 ở quán karaoke Amigo, S đem vào phòng 01 gói nilong, bên trong có chứa 01 gói ketamine và 05 viên thuốc lắc. T nhận gói ma túy từ S rồi đưa cho Vũ, Vũ lấy chiếc đĩa đựng bánh kẹo trên bàn, hơ nóng đĩa rồi đổ ketamine vào, cà mịn, chia thành nhiều đường mảnh. Trong lúc Vũ nấu Ketamine, Ty dùng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng quấn thành ống hút để sử dụng Ketamine. Hồ Khắc Thái B bê đĩa Ketamine mời từng người trong phòng sử dụng để làm quen. Trong quá trình hát karaoke và sử dụng ma túy thì S, Cún, Ty là L1 đã bỏ về trước. Đến 22 giờ 15 cùng ngày, công an thành phố Đà Lạt vào bắt quả tang các đối tượng đang có hành vi sử dụng ma túy gồm T, L, Gia B, V, Vũ, Thái B, Th1, T1, My, L2 và H2, đồng thời thu giữ tang vật gồm: 01 lượng chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy được thu giữ trên chiếc đĩa màu trắng trên bàn phòng 401; 01 đĩa sứ; 01 ống hút được quấn bằng tờ tiền Polimer mệnh giá 10.000 đồng; 01 thẻ nhựa màu vàng và 10 điện thoại di động thu giữ của các đối tượng bị bắt quả tang Tại Kết L giám định số 304/GĐ-PC09 ngày 29/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng xác định: Mẫu chất bột đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,1641g (không phẩy một sáu bốn một gam), loại Methamphetamine và Ketamine.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Ketamine là chất ma túy nằm trong Danh mục III, STT: 35, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại bản án số 93/2023/HS-ST ngày 26/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt đã áp dụng các điểm b, c Khoản 2 Điều 255; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Vũ Quốc Anh T 08 (tám) năm tù, thời hạn tù kể từ ngày 24/3/2022; áp dụng điểm b Khoản 2 Điều 255; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 90; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự xử phạt: bị cáo Võ V Vũ 05 (năm) năm tù, thời hạn tù kể từ ngày 24/3/2022; bị cáo Hồ Khắc Thái B 04 (bốn) 06 (sáu) tháng năm tù, thời hạn tù kể từ ngày 24/3/2022.

Đối chiếu lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của Vũ Quốc Anh T, Võ V Vũ và Hồ Khắc Thái B, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết L giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết L hành vi của bị cáo Trương Nguyễn Hoài S phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo Trương Nguyễn Hoài S đã bàn bạc với Vũ Quốc Anh T về việc tổ chức sử dụng ma túy, chuẩn bị địa điểm và cung cấp ma túy cho Võ V Vũ để Vũ cà mịn và chia thành từng đường để mọi người cùng sử dụng, trong những người sử dụng ma túy có Võ V Vũ, Hồ Khắc Thái B là người chưa đủ 18 tuổi, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt truy tố bị cáo Trương Nguyễn Hoài S theo quy định tại các điểm b, c Khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với hành vi của Vũ Quốc Anh T, Võ V Vũ, Hồ Khắc Thái B đã bị xét xử tại bản án số 93/2023/HS-ST ngày 26/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt.

Đối với các đối tượng Cún và Ty có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, hiện nay Cơ quan điều tra chưa xác định rõ nhân thân lai lịch, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

Đối với Lê Hoàng Công L, Phạm Gia B, Nguyễn Huỳnh Đức V, Hồ Thị Kim T1, Trần Thị Thanh L2, Nguyễn Thị Diễm M1, Phan Thị H2 và Vi Thị Bích Th1 bị bắt quả tang sử dụng trái phép chất ma túy. Công an thành phố Đà Lạt đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo phạm tội không thuộc trường hợp bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội đã ra đầu thú nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là coi thường pháp luật và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách Nhà nước độc quyền quản lý chất ma túy, góp phần duy trì tệ nạn ma túy và gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội tại địa phương, do đó cần thiết phải xử phạt nghiêm minh, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới có tác dụng giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Về áp dụng hình phạt bổ sung: Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa không xác định được bị cáo có thu lợi gì từ việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án đã được giải quyết tại bản án số 93/2023/HS-ST ngày 26/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt.

[5] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: các bị cáo Trương Nguyễn Hoài S (Tý nhỏ) phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng các điểm b, c Khoản 2 Điều 255; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: bị cáo Trương Nguyễn Hoài S (Tý nhỏ) 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù kể từ ngày 06/7/2023.

[2] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về việc áp dụng án phí, lệ phí Tòa án: buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

110
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 11/2024/HS-ST

Số hiệu:11/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:19/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về