Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 101/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 101/2023/HS-ST NGÀY 20/09/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xét xử phiên tòa trực tuyến đối với vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 91/2023/HSST ngày 23 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Trịnh Minh T, tên gọi khác: L, sinh năm 1989, tại tỉnh Tây Ninh; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: 2/223, khu phố N, thị trấn G, huyện G, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trịnh Minh Đ (đã chết) và bà Phùng A M (đã chết); vợ, con: chưa có; tiền sự: không có; tiền án: tại Bản án số 86/2015/HSST ngày 25-9-2015 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh (nay là thị xã T) xử phạt bị cáo 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Nhân thân: Ngày 15-6-2006 bị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xử phạt 02 năm tù về tội “Phá hủy công trình phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia”.

Bị cáo bị cáo bị tạm giữ ngày 07-6-2023, đến ngày 16-6-2023 chuyển sang tạm giam cho đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trịnh Minh T là đối tượng nghiện ma túy. Vào khoảng 13 giờ ngày 06-6- 2023, T đón xe buýt xuống khu vực cầu vượt C thuộc huyện C, thành phố Hồ Chí Minh dùng số điện thoại 0969501102 gọi vào số điện thoại 0967152850 của người thanh niên tên T1 chưa rõ lai lịch địa chỉ hỏi mua 500.000 đồng ma túy heroin và 300.000 đồng ma túy đá. Sau khi mua ma túy xong, T mang về khu vực xóm nhà cháy thuộc thị trấn G, T đổ một ít ma túy đá và nỏ thủy tinh sử dụng.

Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, T mang theo nỏ thủy tinh (bên trong còn ma túy chưa sử dụng hết lúc trưa), kim tiêm, 01 bịch ma túy Heroin và 01 bịch ma túy đá bỏ vào túi màu đen cất giấu trong người đến quán cà phê đối diện trung tâm y tế huyện Gò Dầu. Lúc này, T gặp Phạm Thị Cẩm H, sinh năm 1993, ngụ Ô khu phố R, thị trấn G, huyện G và rủ H đến khu vực Trung tâm văn hóa huyện G thuộc khu phố R, thị trấn G, huyện G để sử dụng ma túy thì H đồng ý. Khi đến nơi, thấy có nhiều người đang chơi hội chợ nên T và H đi lòng vòng chờ đến khoảng 00 giờ 30 phút ngày 07/6/2023 thì T rủ H cùng vào Trung tâm văn hóa sử dụng ma túy. T lấy nỏ thủy tinh còn sẵn ma túy lúc trưa và dùng chai nhựa khoét lổ, cố định nỏ thủy tinh có chứa ma túy và ống hút rồi dùng bật lửa đốt hút khoảng 03 hơi rồi để trên nền gạch và đưa cho H sử dụng. Sau đó, T lấy 02 ống kim tiêm ra pha ma túy heroin rồi pha vào 02 ống kim tiêm, T sử dụng 01 ống và đưa cho H sử dụng 01 ống, sau đó cả 02 ngồi nói chuyện để chờ sau đó tiếp tục sử dụng số ma túy còn lại, đến khoảng 01 giờ cùng ngày thì bị lực lượng Công an thị trấn kiểm tra bắt quả tang và thu giữ vật chứng có liên quan.

Quá trình điều tra, T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình. T có 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa nên lần phạm tội này là tái phạm.

Tại Kết luận giám định số 849 ngày 15-6-2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận:

- Mẫu chất rắn màu trắng bên trong 01 bịch nylon màu trắng được hàn kín ba đầu, một đầu khóa bóp có viền đỏ (Kí hiệu M1.1) gửi đến giám định là chất ma túy; Loại Heroine (H), có tên khoa học là D, được quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)Nghị định số 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất; Khối lượng 0,5057 gam.

- Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 01 bịch nylon màu trắng hàn kín ba đầu, một đầu khóa bóp có viền màu đỏ (kí hiệu M1.2) gửi đến giám định là chất ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng 0,0449 gam.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 849/KL-KTHS có dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, chữ ký của giám định viên Nguyễn Thị Tuyết M1 và trợ lý giám định Lê Nhựt N, bên trong là chất ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,4380 gam là mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 (một) bịch nylon màu đen có quai sách; 02 (hai) bơm kim tiêm đã qua sử dụng; 02 (hai) bơm kim tiêm chưa qua sử dụng; 01 (một) chai nhựa Sting, trên nắp có gắn ống hút nhựa màu trắng; 01 (một) bật lửa màu đỏ; 01 (một) bật lửa màu xanh; 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO Renzo – CPH1979.

Về kê biên tài sản: Qua xác minh thể hiện T không có sở hữu tài sản nên Cơ quan điều tra không tiến hành kê biên.

Cáo trạng số: 91/CT-VKSGD ngày 16-8-2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu đã truy tố bị cáo: Trịnh Minh T (Liêm) phạm vào tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trịnh Minh T (L) phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; căn cứ khoản 1 Điều 255 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trịnh Minh T (L) từ 03 (ba) năm đến 04 (bốn) năm tù.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo đã ăn năn, hối cải, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Gò Dầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện như sau: Quá trình điều tra, truy tố, tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định: Lúc 01 giờ ngày 07-6-2023, tại Trung tâm văn hóa huyện G thuộc khu phố R, thị trấn G, huyện G, Trịnh Minh T có hành vi mua chất ma túy, chuẩn bị dụng cụ cho Phạm Thị Cẩm H sử dụng trái phép chất ma túy nhằm thỏa mãn cơn nghiện thì bị bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật Hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Vụ án này mang tính chất nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, còn là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm và bệnh tật khác. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật hình sự, nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, khi quyết định hình phạt cần áp dụng một mức án nghiêm khắc, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống bình thường của xã hội một thời gian mới đủ tính răn đe giáo dục, phòng ngừa chung cho xã hội.

Do bị cáo không có tài sản nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, cụ thể như sau:

[4.1] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo có một tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội, nên lần phạm tội này là tái phạm, bị cáo phải chịu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[4.2] Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tỉnh tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng:

[5.1] Đối với 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 849/KL-KTHS có dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, chữ ký của giám định viên Nguyễn Thị Tuyết M1 và trợ lý giám định Lê Nhựt N, bên trong là chất ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,4380 gam là mẫu vật hoàn lại sau giám định là chất là chất Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu huỷ.

[5.2] Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO Renzo – CPH1979 là phương tiện của bị cáo dùng vào việc liên lạc mua ma túy, còn giá trị nên cần tịch thu, sung vào Ngân sách Nhà nước;

[5.3] Đối với 01 (một) bịch nylon màu đen có quai sách; 02 (hai) bơm kim tiêm đã qua sử dụng; 02 (hai) bơm kim tiêm chưa qua sử dụng; 01 (một) chai nhựa Sting, trên nắp có gắn ống hút nhựa màu trắng; 01 (một) bật lửa màu đỏ; 01 (một) bật lửa màu xanh là công cụ, phương tiện bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Đối với các đối tượng có liên quan khác:

[6.1] Đối với người đàn ông tên T1 không rõ lai lịch, sử dụng số điện thoại 0967152850 bán ma túy cho T do không rõ họ tên địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gò Dầu đã yêu cầu Viettel chi nhánh tỉnh Tây Ninh cung cấp thông tin đăng ký số thuê bao, khi nào có thông tin làm việc được xử lý sau.

[6.2] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Phạm Thị Cẩm H, Công an thị trấn Gò Dầu, huyện Gò Dầu đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu là có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trịnh Minh T (L) phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”;

Căn cứ khoản 1 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trịnh Minh T (Liêm) 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 07 tháng 6 năm 2023.

2. Các biện pháp tư pháp: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

2.1. Tuyên tịch thu tiêu huỷ: 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 849/KL- KTHS có dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, chữ ký của giám định viên Nguyễn Thị Tuyết M1 và trợ lý giám định Lê Nhựt N, bên trong là chất ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,4380 gam là mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 (một) bịch nylon màu đen có quai sách; 02 (hai) bơm kim tiêm đã qua sử dụng; 02 (hai) bơm kim tiêm chưa qua sử dụng; 01 (một) chai nhựa Sting, trên nắp có gắn ống hút nhựa màu trắng; 01 (một) bật lửa màu đỏ; 01 (một) bật lửa màu xanh.

2.2. Tuyên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO Renzo – CPH1979.

(Hiện vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21-8-2023).

3. Án phí: Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

Bị cáo Trịnh Minh T (L) phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền tự thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.  

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 101/2023/HS-ST

Số hiệu:101/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:20/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về