Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý số 101/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÒA BÌNH, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 101/2022/HS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 27 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 89/2022/HSST ngày 16 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. LÊ THỊ V, sinh năm 2002. Giới tính: Nữ. Tên gọi khác: không. HKTT: thôn Nam Lãng Nội, xã Gia Lập, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Nơi cư trú: tổ 09, phường Quỳnh Lâm, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hoá: 09/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Có bố là Lê Văn H và mẹ là Trịnh Thị Th; Có chồng là Đinh Xuân L (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2020; Gia đình bị cáo có 02 chị em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/3/2022 đến 25/3/2022 được tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

2. NGUYỄN VĂN H, sinh năm 1994. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không. HKTT: xã Yên Bồng, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình. Nơi cư trú: tổ 09, phường Quỳnh Lâm, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Có bố là Nguyễn Văn T và mẹ là Nguyễn Thị L; Vợ con chưa có; Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ 17/3/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP Hòa Bình, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

3. VŨ MẠNH C, sinh ngày 1992. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: không. Nơi cư trú: tổ 05, phường Tân Thịnh, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Có bố là Vũ Đình Q và mẹ là Hoàng Thị Ch; Vợ con chưa có; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ 17/3/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an tỉnh Hòa Bình, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

4. NGUYỄN QUANG L, sinh ngày 1993. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: không. Nơi cư trú: tổ 06, phường Tân Thịnh, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Có bố là Nguyễn Quang Tr và mẹ là Vương Thị H; Vợ con chưa có; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ 17/3/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an tỉnh Hòa Bình, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 16/3/2022 Lê Thị V, Nguyễn Quang L, Vũ Mạnh C và Đinh Khánh H đi hát Karaoke tại quán Cool1. Khoảng 01 giờ ngày 17/3/2022 cả nhóm hát xong V rủ L, C, H về khách sạn Cánh Diều nghỉ ngơi, cả nhóm đồng ý. Khi đến sảnh khách sạn V rủ cả nhóm mua ma túy về sử dụng, cả nhóm đồng ý. Sau đó L đứng ra thuê 02 phòng 601 và 701. Khi thuê được phòng ca nhóm tập trung tại phòng 701, tại đây V tiếp tục bàn bạc với cả nhóm việc mua ma túy để sử dụng. V hỏi mua số lượng ma túy như thế nào thì C nói “mua 1,5 chỉ ketamine và 02 viên (thuốc lắc) MDMA”. V nói “lấy 01 chỉ ketamine và 02 viên MDMA thôi”. C đồng ý, số tiền mua ma túy V đứng ra thanh toán trước, sau đó C, L sẽ chuyển tiền cho V. L, H không bàn bạc gì nhưng cũng không phản đối (ngầm đồng ý). Sau đó V sử dụng điện thoại di động láp sim số 0865855135 liên lạc với người bạn tên Ng (V không rõ địa chỉ, đặc điểm) nhờ hỏi mua hộ 01 chỉ ketamine và 02 viên MDMA (chưa thỏa thuận giá cả). Ng đồng ý và bảo một lúc sau sẽ có người mang ma túy đến khách sạn cho V. Sau đó Vân tiếp tục gọi điện cho Nguyễn Văn H, bảo H mang lên phòng 701 cho V đĩa sứ, đèn chớp và loa, mục đích là để phục vụ việc sử dụng ma túy. H đồng ý. Lúc này có 01 người đàn ông tên T (T Kim) gọi điện thoại cho V xuống cổng khách sạn nhận ma túy là 01 gói nilon bên trong chứa 01 chỉ ketamine và 02 viên MDMA. V nhận ma túy nhưng chưa trả tiền. Khi V mang ma túy lên phòng thì H mang theo 01 vali màu hồng, bên trong chứa 01 đĩa sứ, 01 đèn chớp, 01 loa đến. H để đĩa sứ lên kệ bàn, cắm đèn chớp, cắm loa và bật nhạc sàn. Sau đó V lấy 02 viên MDMA chia cho L, C, H mỗi người ½ viên, tuy nhiên H không sử dụng nên V đã sử dụng nốt. Tiếp đó V, H là người trực tiếp “xào ke”, khi “xào ke” L đưa cho V 01 thẻ nhựa cứng màu xanh, loại thẻ Viettel Pay mang tên Nguyễn Quang L để V “xào ke”. C là người dùng điện thoại (không rõ điện thoại của ai) soi đèn cho V, H “xào ke”. C cũng là người dùng tờ tiền mệnh giá 20.000đ cuộn tròn làm tẩu để hít ketamine. H dùng thẻ nhựa chia ketamine ra khoảng 5 đường kẻ rồi H C sử dụng, số ketamine còn lại H dồn vào một góc đĩa sứ. Những người còn lại gồm V, L, H chưa sử dụng ketamine, sau đó H đi về. Đến khoảng 02 giờ 10’ cùng ngày tổ công tác Công an TP Hòa Bình đã tiến hành kiểm tra tại phòng 701, phát hiện bắt quả tang, thu giữ cùng tang vật.

Bản kết luận giám định số: 68/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 18/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận:

“- Chất tinh thể màu trắng bám dính trên bề mặt đĩa sứ hình tròn, màu trắng trong hộp niêm phong gửi giám định có khối lượng 0,66g (không phẩy sáu mươi sáu gam ) là ma túy loại Ketamine.

- Chất bám dính trong lòng 02 túi nilon màu trắng ký hiệu M2, M3 trong hộp niêm phong gửi giám định là ma túy loại Ketamine.

- Chất màu trắng bám dính trong lòng ống được cuộn bằng tờ tiền mệnh giá 20.000đ trong hộp niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Ketamine.

- Chất màu trắng bám dính trên bề mặt thẻ nhựa cứng màu xanh có chữ Viettel Pay mang tên Nguyễn Quang L trong hộp niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Ketamine.” Kết quả xét nghiệm nước tiểu ngày 17/3/2022 của các đối tượng xác định: Lê Thị V, Đinh Khánh H, Nguyễn Quang L, Vũ Mạnh C, Nguyễn Văn H đều dương tính với ma túy.

Cáo trạng số: 92/CT-VKS ngày 12/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hoà Bình truy tố Lê Thị V, Nguyễn Quang L, Vũ Mạnh C, Nguyễn Văn H về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự.

Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Lê Thị V, Nguyễn Văn H, Nguyễn Quang L, Vũ Mạnh C phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình để xử phạt Lê Thị V từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù.

- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt Nguyễn Văn H từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù.

- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật Hình để xử phạt Nguyễn Quang L từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật Hình để xử phạt Vũ Mạnh C từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng: các bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của bản thân và xin được hưởng mức án thấp nhất để làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP Hòa Bình, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân TP Hòa Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi các bị cáo đã thực hiện:

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu được, kết luận giám định cũng như các tài liệu, chứng cứ đã thu giữ, nên có căn cứ xác định: Ngày 17/3/2022, các bị cáo Lê Thị V, Nguyễn Quang L, Vũ Mạnh C, Nguyễn Văn H đã có hành vi tổ chức cho mình và Đinh Khánh H, sinh ngày 13/11/2007 (chưa đủ 15 tuổi) sử dụng trái phép ma túy tổng hợp (Ketamine, MDMA) tại phòng 701 khách sạn Cánh Diều, thuộc tổ 16, phường Phương Lâm, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.

Hành vi của các bị cáo là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn, đây còn là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua, cung cấp ma túy, tụ tập, chế biến ma túy để cùng nhau sử dụng bị nghiêm cấm nhưng do coi thường pháp luật, nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân mình và những người khác nên vẫn cố tình thực hiện. Cáo trạng truy tố các bị cáo Lê Thị V, Nguyễn Quang L, Vũ Mạnh C, Nguyễn Văn H về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 255 của BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

Với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện cần áp dụng hình phạt tù tương xứng, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới để cải tạo, giáo dục và răn đe phòng ngừa tội phạm nói chung.

[3] Về vị trí, vai trò của từng bị cáo trong vụ án:

Đây là vụ án có nhiều đối tượng cùng nhau tham gia thực hiện tội phạm nhưng giữa các bị cáo không có sự bàn bạc, chỉ đạo, điều hành, phân công trách nhiệm, vai trò của từng người một cách rõ ràng, chặt chẽ nên chỉ là đồng phạm giản đơn.

Trong vụ án này, bị cáo Lê Thị V giữ vai trò chính, là người khởi xướng, rủ rê, trực tiếp mua, chia và chế biến ma túy nên phải chịu mức án cao hơn các đồng phạm khác. Đối với bị cáo Nguyễn Văn H là người giúp sức tích cực cho V, cung cấp công cụ gồm loa, đèn, đĩa sứ phục vụ việc sử dụng ma túy và cũng là người trực tiếp tham gia chế biến ma túy nên phải chịu mức hình phạt sau bị cáo V. Đối với Nguyễn Quang L và Vũ Mạnh C tham gia với vai trò là người giúp sức, L là người đặt phòng, đưa thẻ nhựa cho V chế biến ma túy, C là người soi đèn cho V, H chế biến ma túy và dùng tờ tiền của mình cuộn thành tẩu để sử dụng ma túy. Do đó bị cáo L phải chịu mức án cáo hơn bị cáo C và thấp hơn bị cáo V và bị cáo H là phù hợp.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân người phạm tội:

Các bị cáo có nhân thân tốt và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Qúa trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân. Riêng bị cáo Vũ Mạnh C đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm và Phòng CSĐTTP về ma túy Công an tỉnh Hòa Bình đã có công văn số: 722/CV ngày 07/7/2022 về việc xin xem xét giảm nhẹ; gia đình bị cáo C có ông ngoại và bác ruột là liệt sĩ. Đối với bị cáo Nguyễn Quang L là người có thành tích xuất sắc trong công tác; gia đình bị cáo có ông và chú ruột là người có công với cách mạng. Ngoài ra xem xét hoàn cảnh gia đình bị cáo Nguyễn Văn H là gia đình chính sách có ông nội được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất và bác ruột là liệt sĩ. Đối với bị cáo V hiện đang một mình nuôi con còn nhỏ.

Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, t, v khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật Hình sự, được áp dụng khi quyết định hình phạt với từng bị cáo.

Căn cứ vào vị trí, vai trò, tính chất hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội, HĐXX xét thấy, bị cáo Nguyễn Văn H tham gia với vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án và bị cáo Vũ Mạnh C, bị cáo Nguyễn Quang L có 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 BLHS nên có thể áp dụng Điều 54 BLHS để quyết định cho các bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của hình phạt được áp dụng và trong khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có việc làm, thu nhập nên không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung.

[6] Về nguồn gốc ma túy: Lê Thị V khai nhận nhờ một người phụ nữ tên Ng mua hộ và nhận ma túy từ một người đàn ông tên T. Quá trình điều tra do không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể của 02 đối tượng trên nên không có căn cứ để giải quyết trong vụ án này.

[7] Về hành vi của những cá nhân khác trong vụ án:

Đối với Đinh Khánh H qúa trình điều tra xác định không liên quan đến việc bàn bạc, phân công, thực hiện các hành vi chuẩn bị cho việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nên không xem xét trách nhiệm hình sự. Cơ quan điều tra ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là đúng với quy định của pháp luật.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với các vật chứng là 0,52g mẫu ma túy loại ketamine, 01 đĩa sứ, 03 túi nilon màu trắng, 01 thẻ nhựa cứng, 01 bật lửa ga đều là các công cụ, phương tiện phạm tội nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 vali màu hồng bên trong có: 01 loa, 01 đèn chiếu và 01 tờ tiền 20.000 đồng là phương tiện phạm tội, xét thấy vẫn còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xanh xám thu giữ của Lê Thị V và 01 điện thoại Iphone màu vàng nhạt thu giữ của Nguyễn Văn H, HĐXX xét thấy bị cáo V đã sử dụng chiếc điện thoại trên liên lạc để mua ma túy cũng như gọi cho H mang công cụ loa, đèn chiếu đến để phục vụ việc sử dụng ma túy, còn bị cáo H đã nhận điện thoại của V, đây là những phương tiện phạm tội vẫn còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 02 sim điện thoại: 01 sim Viettel,thu giữ bên trong máy điện thoại của bị cáo V và 01 sim Viettel thu giữ bên trong máy điện thoại của bị cáo H, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/ 2016/ UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, mỗi bị cáo Lê Thị V, Nguyễn Quang L, Vũ Mạnh C, Nguyễn Văn H phải chịu án phí hình sự 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Lê Thị V, Nguyễn Quang L, Vũ Mạnh C, Nguyễn Văn H phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.

- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Lê Thị V 07 năm 06 tháng (Bảy năm sáu tháng) tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án. Được trừ 09 ngày bị cáo đã bị tạm giữ (từ 17/3/2022 đến 25/3/2022).

- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Nguyễn Văn H 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 17/3/2022.

- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Nguyễn Quang L 03 năm 06 tháng (Ba năm sáu tháng) tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 17/3/2022.

- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Vũ Mạnh C 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 17/3/2022.

2.Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,52g mẫu ma túy loại ketamine; 01 đĩa sứ hình tròn trắng; 03 túi nilon màu trắng ký hiệu M1, M2, M3; 01 thẻ nhựa cứng màu xanh; 01 bật lửa ga màu đỏ cùng toàn thể vỏ bao gói còn lại sau giám định. Các vật chứng trên được đựng trong 01 hộp niêm phong vật chứng hoàn trả sau giám định chất ma túy, một mặt có ghi vụ Lê Thị V, Vũ Mạnh C, Nguyễn Quang L, Đinh Khánh H – có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Xảy ra ngày 17/3/2022 tại phường Phương Lâm, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, các mép dán niêm phong được dán kín, có dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình, chữ ký xác nhận của giám định viên và thành phần tham gia niêm phong.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 tờ tiền 20.000 đồng được cuộn thành ống hình trụ tròn;

- Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước: 01 vali màu hồng, đã qua sử dụng, bên trong có: 01 loa màu đen nhãn hiệu Harman/kardon; 01 đèn chiếu sáng màu trắng hình tròn không ghi nhãn hiệu. Mép vali được dán kín có dấu tròn đỏ niêm phong của Cơ quan CSĐT Công an TP Hòa Bình và chữ ký của những người tham gia niêm phong.

- Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng xanh xám, số Imei: 352849110353764, đã qua sử dụng thu giữ của Lê Thị V và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng nhạt, số Imei:

353103101634447, đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Văn H.

- Tịch thu tiêu hủy 02 sim điện thoại: 01 sim Viettel thu giữ bên trong máy điện thoại của bị cáo Lê Thị V và 01 sim Vietttel thu giữ bên trong máy điện thoại của bị cáo Nguyễn Văn H.

(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hòa Bình có đặc điểm cụ thể như mô tả trong biên bản giao nhận vật chứng số 92/BB ngày 05/9/2022 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hòa Bình và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hòa Bình).

3. Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Mỗi bị cáo Lê Thị V, Nguyễn Quang L, Vũ Mạnh C, Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. /.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

310
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý số 101/2022/HS-ST

Số hiệu:101/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về