Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 04/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUAN SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 04/2024/HS-ST NGÀY 13/03/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 13 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:

02/2024/TLST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2024/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2024; đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Ngân Văn X, sinh ngày 27 tháng 01 năm 1993, tại huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: khu phố P, thị trấn S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Không có dữ liệu và con bà Ngân Thị T; bị cáo chung sống như vợ chồng với chị Hà Thị C từ năm 2009 đến năm 2013, chung sống như vợ chồng với chị Vi Thị T từ năm 2017 đến năm 2019 và 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Từ năm 2011 đến 2013 đi cơ sở giáo dục bắt buộc tại huyện Hoàn Cát, tỉnh Quảng Trị, từ năm 2019 đến 2022 đi cai nghiện bắt buộc tại Hà Nội. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/10/2023 đến ngày 14/10/2023 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa; Có mặt.

2. Họ và tên: Hà Văn P, sinh ngày 13 tháng 6 năm 2001, tại huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: khu phố B, thị trấn S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam;

tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn C và bà Vi Thị T; bị cáo có vợ là Hà Kim C và 01 con sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/10/2023 đến ngày 14/10/2023 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa; Có mặt.

3. Họ và tên: Vi Anh M, sinh ngày 15 tháng 4 năm 2006, tại huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: khu phố P, thị trấn S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Học sinh; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Văn N và bà Phạm Thị N; tiền án, tiền sự: Không; Hiện bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Vi Anh M: Chị Phạm Thị N, sinh năm 1985; trú tại: khu phố P, thị trấn S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa (Là mẹ đẻ của bị cáo Minh); Có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo Ngân Văn X, Hà Văn P và Vi Anh M: Ông Nguyễn Ngọc Kh - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa; có mặt.

- Đại diện Trường Trung học phổ thông Quan Sơn: Bà Trần Thị P - Giáo viên - Bí thư đoàn trường; Có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Lương Văn T, sinh năm 1996; địa chỉ: khu phố 1, thị trấn S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

+ Anh Hà Văn Q, sinh năm 1997; địa chỉ: khu phố P, thị trấn S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 15 giờ 30 phút, ngày 08/10/2023 nhận được tin báo từ quần chúng nhân dân về việc tại nhà anh Ngân Văn X, địa chỉ: khu phố P, thị trấn S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa có hoạt động sử dụng trái phép chất ma túy. Tổ công tác Công an huyện Quan Sơn phối hợp với Công an thị trấn Sơn Lư tiến hành kiểm tra hành chính, phát hiện tại nhà Ngân Văn X tại vị trí dưới đất cạnh giường ngủ của Xâm có 01 bộ dụng cụ bằng chai nước nhựa, phía dưới được đục lỗ cắm ống tre và các mảnh vụn của giấy bạc. Qua đấu tranh, Ngân Văn X khai nhận vừa sử dụng ma túy tại nhà cùng với Lương Văn T, sinh năm 1996, trú tại: khu phố 1, thị trấn S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa và Hà Văn Q, sinh năm 1997, trú tại: khu phố 3, thị trấn S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa. Bộ dụng cụ nêu trên là của X đã sử dụng bộ dụng cụ để sử dụng ma túy cùng với Lương Văn T và Hà Văn Q. Ngân Văn X đã đầu thú với Cơ quan Công an về hành vi của mình. Tiếp đó, Vi Anh M, sinh năm 2006, trú tại: khu phố P, thị trấn S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa và Hà Văn P, sinh năm 2001, trú tại: khu phố B, thị trấn S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa đã đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Quan Sơn đầu thú về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Khám xét khẩn cấp nhà của Hà Văn P phát hiện và thu giữ tại vị trí đầu giường trong phòng ngủ của P 01 túi ni long màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng ngà nghi là Heroine và lá cây, mảnh ni long.

Tại bản kết luận giám định số: 3699/KL-KTHS ngày 12/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:

1. Hộp giấy:

- Tìm thấy chất ma túy, loại: Methamphetamine bám dính bên trong chai nhựa, ống tre niêm phong gửi giám định.

- Tìm thấy chất ma túy, loại: Methamphetamine bám dính trên các mảnh ni long niêm phong gửi giám định.

- Tìm thấy chất ma túy, loại: Methamphetamine bám dính trên các vụn giấy bạc niêm phong gửi giám định.

2. Phong bì mặt trước có ghi: Tang vật thu giữ tại nhà Hà Văn P - Chất bột màu trắng ngà, có tổng khối lượng 0,062g (không phẩy không sáu hai gam). Qua giám định không tìm thấy chất ma túy.

- Không tìm thấy chất ma túy bám dính trên lá cây niêm phong gửi giám định.

- Tìm thấy chất ma túi, loại: Heroine bám dính trên mảnh túi ni long niêm phong gửi giám định.

Quá trình điều tra, các đối tượng khai nhận, vào khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 08/10/2023, Hà Văn Q có gọi điện cho Ngân Văn X qua ứng dụng Messenger Facebook hỏi “còn ma túy không” thì Ngân Văn X trả lời với Q là “không có”. Một lúc sau, Lương Văn T sử dụng tài khoản Facebook “T cá bống” gọi điện, nhắn tin cho X vào tài khoản Facebook “Ngân Văn X” bằng ứng dụng Messenger Facebook với nội dung: “Anh ơi, em mới về anh kiếm lấy tý về chơi” (nghĩa là kiếm lấy ít ma túy về sử dụng), X trả lời với T: “Ừ”. Khoảng 14 giờ cùng ngày, T và Q đi chung một xe máy đến nhà Ngân Văn X và sau đó X có lấy từ trong nhà mang ra 07 viên ma túy tổng hợp (hồng phiến) và lấy “cóng” (tự chế từ chai nhựa, phía dưới có đục lỗ và cắm bằng ống tre, bên trong chai nhựa có một lượng nước nhất định) cùng giấy bạc, bật lửa đã chuẩn bị trước đó ra để cả ba người cùng sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy xong, T và Q đi về nhà, còn Ngân Văn X ở nhà ngủ. Mở rộng điều tra xác định: vào ngày 04/10/2023 Ngân Văn X đã gọi điện cho Vi Anh M qua ứng dụng Zalo (lưu Vi Anh M trong điện thoại là: M Đen) và có hỏi: “Cháu ở nhà không chú đang về kiếm lấy ít chơi” (nghĩa là mua cho X ít ma túy). Sau khi Xâm hỏi mua ma túy, Vi Anh M đã gọi điện cho Hà Văn P qua ứng dụng Messenger Facebook hỏi việc mua ma túy với số tiền là 500.000đ và được P đồng ý. Sau khi thống nhất việc mua, bán ma túy, Ngân Văn X có sử dụng tài khoản ngân hàng Techcombank của mình để chuyển cho M số tiền 600.000đ để mua ma túy. Sau đó, Vi Anh M chuyển cho Hà Văn P số tiền 500.000đ qua tài khoản cho P và P có lấy 09 viên ma túy gói vào túi nilong và đi đến khu vực ven đường cạnh cột mốc tại khu vực km 40 (địa chỉ: thị trấn S, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa) và đặt tại vị trí trên rồi sử dụng ứng dụng Messenger Facebook để gọi điện cho M qua vị trí nêu trên để nhận ma túy.

Sau khi nhận ma túy, M có đưa cho X 09 viên ma túy tổng hợp và X đã sử dụng 02 viên. Nguồn gốc số ma túy mà P có được là do mua của một người đàn ông người dân tộc Mông không rõ tên tuổi, địa chỉ tại khu vực ba bản Mông của xã Sơn Thủy về để sử dụng và bán kiếm lời. Lời khai của từng bị can phù hợp với lời khai của các bị can khác, tang vật thu giữ cùng các tài liệu thu thập trong quá trình điều tra.

Đối với Lương Văn T và Hà Văn Q quá trình điều tra xác định đã vi phạm khoản 1 Điều 23 Nghị định 144/2021/NĐ-CP. Ngày 23/12/2023 Trưởng Công an thị trấn Sơn Lư đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Lương Văn T và Hà Văn Q.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Hà Văn P, do Phúc không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ nên không thể xác định được. Cơ quan CSĐT Công an huyện Quan Sơn tiếp tục điều tra, xác minh nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

Vật chứng của vụ án thu giữ đang được quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quan Sơn chờ xử lý theo quy định gồm:

- Toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong; hộp cattong có các hình dấu tròn có nội dung “Công an thị trấn Sơn Lư - Công an huyện Quan Sơn - Tỉnh Thanh Hóa”; 01 (một) chai nhựa, trên thân chai nhựa có đục 01 (một) lỗ cắm ống tre, bên trong chai có bám dính chất lỏng. Trên ống tre có chất bám dính màu đen; 01 (một) túi ni long có mép dính màu trắng, đựng 01 (một) túi ni long màu trắng, bên trong chứa: các mảnh túi ni long, các vụn giấy bạc; 0,035g (không phẩy không ba năm gam) chất bột trắng ngà, lá cây và mảnh vụn túi ni long của phong bì mặt trước có ghi “Tang vật thu giữ của Hà Văn P”. Tất cả được đựng trong phong bì niêm phong mẫu vật do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ, tên Lê Minh Tiến, Lê Bá Long và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max, màu vàng đồng số IMEI 1: 353095103748235, số IMEI 2: 353095103524479, đã qua sử dụng, máy lắp 01 sim VIETTEL, số sim: 03484897xx.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart, màu vàng đồng, số IMEI 1: 352859105048584, số IMEI 2: 352859105048592 kèm theo 02 số thuê bao: số VIETTEL: 03597491xx, số Vinaphone: 08397483xx, tình trạng đã qua sử dụng.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime; số IMEI 1: 353415087249556, số IMEI 2: 353416087249554, kèm theo hai sim có số thuê bao lần lượt là sim 1: 03336020xx, sim 2: 08135671xx, tình trạng đã qua sử dụng.

Tại bản Cáo trạng số: 04/CT-VKSQS, ngày 22/01/2024, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Ngân Văn X về tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của BLHS; truy tố các bị cáo Hà Văn P và Vi Anh M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đều khai nhận hành vi đã thực hiện đúng như nội dung Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố.

Đại diện VKSND huyện Quan Sơn tại phiên tòa luận tội đối với các bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Ngân Văn X phạm tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; tuyên bố các bị cáo Hà Văn P và Vi Anh M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

* Về trách nhiệm hình sự đề nghị:

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của BLHS, xử phạt bị cáo Ngân Văn X mức án từ 08 năm đến 09 năm tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của BLHS, xử phạt bị cáo Hà Văn P mức án từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38;

Điều 90; Điều 91; khoản 1 Điều 101 của BLHS, xử phạt bị cáo Vi Anh M mức án từ 17 tháng đến 20 tháng tù.

* Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp.

Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a, b khoản 2 Điều 106 của BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước đối với:

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max, màu vàng đồng, đã qua sử dụng của Hà Văn P.

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart, màu vàng đồng, tình trạng đã qua sử dụng của Vi Anh M.

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime, tình trạng đã qua sử dụng của Ngân Văn X.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước đối với số tiền 100.000đ do Vi Anh M có được từ việc bán ma túy cho Ngân Văn X và 500.000đ do Hà Văn P có được từ việc bán ma túy cho Vi Anh M.

- Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

* Về án phí: Miễn nộp tiền án phí HSST cho các bị cáo.

Người bào chữa cho các bị cáo Ngân Văn X, Hà Văn P và Vi Anh M đều thống nhất với ý kiến của Đại diện VKS về tội danh cũng như điều luật áp dụng. Đề nghị HĐXX xem xét các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo Vi Anh M phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi. Do các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn, tuổi đời còn trẻ, nhận thức pháp luật còn hạn chế, nhân thân của các bị cáo đều tốt, bị cáo M là học sinh. Đề nghị HĐXX cho các bị cáo được hưởng khoan hồng của pháp luật để giảm nghẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo Ngân Văn X mức án từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù, bị cáo Hà Văn P mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù, bị cáo Vi Anh M từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

Đại diện Trường THPT Quan Sơn nhận xét, đánh giá về Vi Anh M khi đến Trường luôn cố gắng học tập, thực hiện nội quy đầy đủ, tích cực tham gia các hoạt động thể thao của Đoàn Thanh niên phát động. Nhà trường đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để bị cáo có cơ hội sớm trở về với gia đình, cống hiến cho xã hội.

Các bị cáo, người bào chữa, người đại diện hợp pháp cho bị cáo không có ý kiến tranh luận gì. Lời nói sau cùng, các bị cáo nhận tội và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiền hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội: Lời khai báo của các bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, lời trình bày người làm chứng; Bản kết luận giám định, các văn bản tố tụng hình sự khác, cũng như các tài liệu, chứng cứ được thu thập theo trình tự luật định, phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở kết luận:

Với mục đích sử dụng và bán kiếm lời Hà Văn P đã đi lên khu vực bản Mông, xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa mua ma túy từ người đàn ông không rõ tên tuổi về cất giấu để sử dụng và bán cho Vi Anh M. Ngày 04/10/2023 Vi Anh M sau khi được Ngân Văn X hỏi mua ma túy với giá 600.000đ, M đã mua của Hà Văn P 09 viên ma túy tổng hợp với giá 500.000đ rồi bán lại cho Ngân Văn X nhằm hưởng lợi 100.000đ, X đã sử dụng hết 02 viên. Ngày 08/10/2023 X đã chuẩn bị công cụ gồm: “cóng” (tự chế từ chai nhựa, phía dưới có đục lỗ và cắm bằng ống tre, bên trong chai nhựa có một lượng nước nhất định) cùng giấy bạc, bật lửa để cùng Lương Văn T và Hà Văn Q sử dụng 07 viên ma túy tổng hợp tại nhà của X. Nhận thức được hành vi phạm tội, ngày 08/10/2023 bị cáo X đã đầu thú về hành vi phạm tội của mình và thừa nhận sử dụng bộ dụng cụ trên để sử dụng ma túy cùng với Lương Văn T và Hà Văn Q, qua giám định có chất ma túy Methamphetamine. Các bị cáo Hà Văn P và Vi Anh M đã đến Công an huyện Quan Sơn đầu thú về hành vi bán trái phép chất ma túy. Hành vi bán trái phép chất ma túy Hà Văn P và của Vi Anh M đã cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 của BLHS; hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy của Ngân Văn X cho Xâm cùng với hai người là Lương Văn T và Hà Văn Q sử dụng đã cấu thành tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung “Đối với 02 người trở lên” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của BLHS. Như vậy, Cáo trạng của VKSND huyện Quan Sơn truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật như trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, HĐXX thấy rằng: Đây là vụ án có tính chất rất nghiêm trọng, bởi hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và hành vi mua bán trái phép chất ma túy của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, là vấn đề đang được rất quan tâm và trở nên nhức nhối trong toàn xã hội, ma túy đã đẩy nhiều người, nhiều gia đình, nhiều thế hệ vào vòng lao lý, làm xói mòn về đạo đức, làm suy thoái về giống nòi, là nguyên nhân dẫn tới làm phát sinh nhiều tội phạm khác. Bản thân các bị cáo tuổi còn trẻ, có bị cáo còn đang trong độ tuổi ăn học nhưng đã ham chơi, lêu lổng, a dua, đua đòi nên đã tìm đến ma túy để tìm cảm giác lạ, thỏa mãn cho bản thân. Vì vậy, cần có đường lối xử lý nghiêm khắc đối với các bị cáo nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[4]. Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS: Các bị cáo đều không có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội; tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình; đại diện nhà trường của bị cáo Vi Anh M có văn bản đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt. Các bị cáo Ngân Văn X, Hà Văn P và Vi Anh M đã đến Cơ quan CSĐT công an huyện Quan Sơn đầu thú hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, các bị cáo Ngân Văn X, Hà Văn P và Vi Anh M được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS. Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS.

[5]. Về hình phạt: Từ những phân tích, đánh giá nêu trên HĐXX xét thấy cần lên cho các bị cáo mức hình phạt nghiêm, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo và cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục các bị cáo. Đối với bị cáo Vi Anh M khi thực hiện hành vi phạm tội chưa đủ 18 tuổi. Do đó, khi lượng hình xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ TNHS, quy định của pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội để quyết định mức hình phạt đối với từng bị cáo cho phù hợp.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Ngân Văn X, Hà Văn P không có công việc, thu nhập không ổn định, gia đình các bị cáo có giấy chứng nhận hộ nghèo. Bị cáo Vi Anh M là người dưới 18 tuổi phạm tội, theo quy định tại khoản 6 Điều 91 của BLHS. Do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là phù hợp.

[7]. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu huỷ các công cụ phạm tội, gồm: Toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong; hộp cattong có các hình dấu tròn có nội dung “Công an thị trấn Sơn Lư - Công an huyện Quan Sơn - Tỉnh Thanh Hóa”; 01 (một) chai nhựa, trên thân chai nhựa có đục 01 (một) lỗ cắm ống tre, bên trong chai có bám dính chất lỏng. Trên ống tre có chất bám dính màu đen; 01 (một) túi ni long có mép dính màu trắng, đựng 01 (một) túi ni long màu trắng, bên trong chứa: các mảnh túi ni long, các vụn giấy bạc; 0,035g (không phẩy không ba năm gam) chất bột trắng ngà, lá cây và mảnh vụn túi ni long của phong bì mặt trước có ghi “Tang vật thu giữ của Hà Văn P”. Tất cả được đựng trong phong bì niêm phong mẫu vật do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ, tên Lê Minh Tiến, Lê Bá Long và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa.

- Đối với các vật chứng gồm: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max, màu vàng đồng kèm sim: 03484897xx của Hà Văn P; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart, màu vàng đồng kèm theo 02 sim, lần lượt là:

03597491xx, 08397483xx của Vi Anh M; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime kèm theo hai sim lần lượt là 03336020xx, 08135671xx của Ngân Văn X. Những vật chứng trên các bị cáo đã dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- Truy thu sung vào ngân sách nhà nước đối với số tiền 100.000đ do Vi Anh M có được từ việc bán ma túy cho Ngân Văn X và 500.000đ do Hà Văn P có được từ việc bán ma túy cho Vi Anh M. [8]. Về các tình tiết liên quan đến vụ án:

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Hà Văn P: Do bị cáo không quen biết đối tượng bán ma túy cho mình và không biết tên tuổi địa chỉ nên không thể xác định được. Cơ quan CSĐT Công an huyện Quan Sơn tiếp tục điều tra, xác minh nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với Lương Văn T và Hà Văn Q quá trình điều tra xác định đã vi phạm khoản 1 Điều 23 Nghị định 144/2021/NĐ-CP. Ngày 23/12/2023 Trưởng Công an thị trấn Sơn Lư đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Lương Văn T và Hà Văn Q là phù hợp.

[9]. Về án phí: Các bị cáo Ngân Văn X, Hà Văn P thuộc đối tượng hộ nghèo, bị cáo Vi Anh M thuộc đối tượng hộ cận nghèo; các bị cáo đều có đề nghị miễn án phí nên miễn án phí HSST cho các bị cáo là phù hợp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 255; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Ngân Văn X.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS đối với bị cáo Hà Văn P.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 90; Điều 91; khoản 1 Điều 101 của BLHS đối với bị cáo Vi Anh M.

* Tuyên bố: Bị cáo Ngân Văn X phạm tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; các bị cáo Hà Văn P và Ngân Văn X phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

* Xử phạt: Bị cáo Ngân Văn X 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/10/2023.

* Xử phạt: Bị cáo Hà Văn P 32 (ba mươi hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/10/2023.

* Xử phạt: Bị cáo Vi Anh M 17 (mười bảy) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 của BLHS;điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy đối với: Toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong; hộp cattong có các hình dấu tròn có nội dung “Công an thị trấn Sơn Lư - Công an huyện Quan Sơn - Tỉnh Thanh Hóa”; 01 (một) chai nhựa, trên thân chai nhựa có đục 01 (một) lỗ cắm ống tre, bên trong chai có bám dính chất lỏng. Trên ống tre có chất bám dính màu đen; 01 (một) túi ni long có mép dính màu trắng, đựng 01 (một) túi ni long màu trắng, bên trong chứa: các mảnh túi ni long, các vụn giấy bạc; 0,035g (không phẩy không ba năm gam) chất bột trắng ngà, lá cây và mảnh vụn túi ni long của phong bì mặt trước có ghi “Tang vật thu giữ của Hà Văn P”. Tất cả được đựng trong phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ, tên Lê Minh Tiến, Lê Bá Long và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước đối với:

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max, màu vàng đồng số IMEI 1: 3530951037482xx, số IMEI 2: 3530951035244xx, đã qua sử dụng, máy lắp 01 sim VIETTEL, số sim: 03484897xx của Hà Văn P.

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart, màu vàng đồng, số IMEI 1: 3528591050485xx, số IMEI 2: 3528591050485xx kèm theo 02 số thuê bao: số VIETTEL: 03597491xx, số Vinaphone: 08397483xx, tình trạng đã qua sử dụng của Vi Anh M.

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime; số IMEI 1: 3534150872495xx, số IMEI 2: 3534160872495xx, kèm theo hai sim có số thuê bao lần lượt là sim 1: 03336020xx, sim 2: 08135671xx, tình trạng đã qua sử dụng của Ngân Văn X.

Toàn bộ số vật chứng trên hiện đang được quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quan Sơn, theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25/01/2024.

- Truy thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng) từ bị cáo Vi Anh M.

- Truy thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) từ bị cáo Hà Văn P.

* Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn nộp tiền án phí HSST cho các bị cáo Ngân Văn X, Hà Văn P và Vi Anh M.

* Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các Điều 331 và Điều 333 của BLTTHS. Bị cáo, người bào chữa, người đại diện hợp pháp cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 04/2024/HS-ST

Số hiệu:04/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quan Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về