Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 02/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ, B TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 02/2024/HS-ST NGÀY 11/01/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 175/2023/TLST- HS ngày 01 tháng 12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 173/2023/QĐXXST - HS, ngày 27 tháng 12 năm 2023, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phan L S; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh năm: 1988; tại: Quảng Ngãi; NĐKNKTT và cư trú: Tổ B, phường L, thành phố B, Lâm Đồng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Kinh doanh; con ông: Phan L và bà: Phạm Thị Bích Th; vợ: Tưởng Thị Ngọc T, sinh năm 1990 và có 02 con, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2019. Hiện vợ con đều cư trú tại phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 29/7/2023 cho đến nay, có mặt.

2. Họ và tên: Nguyễn Văn D; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh năm: 1987; tại: Lâm Đồng; NĐKNKTT: Số H đường K, Phường Z, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: Số M đường L, xã L, thành phố B, Lâm Đồng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Nguyên là Công chức địa chính xã Đ, thành phố B. Đảng, đoàn thể: Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam (Đã có quyết định thi hành kỷ luật khai trừ vào ngày 08/8/2023 theo Quyết định số 88- QĐ/UBKTThU); con ông: Nguyễn Văn D và bà: Nguyễn Thị Như H (đã chết); vợ: Vũ Thúy L, sinh năm 1991 và có 02 con, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2019, hiện vợ con đều cư trú tại xã L, thành phố B, Lâm Đồng; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 29/7/2023 cho đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo S: Ông Đặng Trọng Kh là Luật sư Công ty luật TNHH AD Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Hồ Thị Mỹ L, sinh năm 1996; địa chỉ: Số K đường T, phường L, TP. B, Lâm Đồng, vắng mặt;

2. Nguyễn Ngọc Ch, sinh năm 2003; địa chỉ: Số H đường T, phường L, TP. B, Lâm Đồng, vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 19 giờ 15 phút ngày 29/7/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố B phối hợp với Công an phường L, thành phố B tiến hành kiểm tra số nhà R, đường T, Tổ G, phường L, thành phố B do bà Nguyễn Thị Bích L là chủ sở hữu do có nghi vấn vi phạm pháp luật. Tại thời điểm kiểm tra trong nhà có Phan L S, Nguyễn Văn D, Hồ Thị Mỹ L, Nguyễn Ngọc Ch đang có mặt tại đây và đều có biểu hiện sử dụng ma túy.

Qua kiểm tra Công an thành phố B phát hiện trong phòng ngủ thứ ba theo hướng từ cửa chính vào trong nhà có các đồ vật, tài liệu như sau:

Tại vị trí trên giường nệm trong phòng có 01 (một) đĩa sứ màu trắng, mặt tròn đường kính 25,5 cm chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy; 01 (một) ống hút tự chế dài 13,5 cm bằng tờ tiền polyme mệnh giá 20.000đ cố định bằng dây nylon màu xanh bám dính chất bột màu trắng nghi là ma túy và 01 (một) thẻ nhựa màu xanh của Ngân hàng Vietcombank mang tên “PHAN L S” kích thước 05cm x 8,5cm bám dính chất bột màu trắng nghi là ma túy.

Tại vị trí bàn gỗ mặt kính màu đen trong phòng có 01 (một) gói nylon với rãnh khép kín, vạch kẻ ngang màu xanh, kích thước 04cm x 04cm chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy và 01 gói (một) gói nylon với rãnh khép kín, vạch kẻ ngang màu đỏ, kích thước 04cm x 04cm chứa 01 (một) viên nén màu nâu nghi là ma túy.

Tại vị trí gờ cạnh phía dưới cửa sổ trong phòng có 01 (một) gói giấy vệ sinh màu trắng, bên trong chứa chất dạng bột màu nâu nghi là ma túy.

Tại vị trí trên nệm ghế gỗ màu vàng trong phòng có 01 (một) loa màu đen kích thước 18cm x 21cm x 40cm nhãn hiệu “harman/kardon”.

Tại vị trí nền phòng gần cửa ra vào có 01 (một) đèn chớp màu trắng kích thước 7,5cm x 15cm và 01 (một) đèn laser màu đen kích thước 9,5cm x 15cm.

Tại vị trí trên giường nệm trong phòng có 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu đỏ, số Imei: 353993 1039511 24, đang kết nối Bluetooth với loa và mở ứng dụng nghe nhạc SoundCloud.

Cơ quan CSĐT Công an thành phố B đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phan L S và Nguyễn Văn D về hành vi “tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, đồng thời thu giữ, niêm phong các tang vật theo quy định của pháp luật Kết quả điều tra, xác định được như sau: Vào khoảng 14 giờ ngày 29/7/2023, Phan L S rủ Nguyễn Văn D, Nguyễn Ngọc Ch, Hồ Thị Mỹ L tham gia sử dụng trái phép chất ma túy “kẹo”, “khay” (thường gọi là “bay”, “lắc”) thì những người này đồng ý. Sau đó S liên hệ với Trần Thị Thiên Th, HKTT: Tổ K, phường L, thành phố B để thuê nhà nguyên căn ở địa chỉ: Số nhà R đường T, Tổ G, phường L, thành phố B của bà Nguyễn Thị Bích L (mẹ đẻ của Th) với giá tiền 3.000.000 đ/01 ngày. Sau đó S điều khiển xe ô tô chở D và Ch đi đến căn nhà này trước, còn L đi taxi đến sau. S đã liên hệ với người tên Tr (không rõ nhân thân lai lịch) đặt mua 02 (hai) viên ma túy “kẹo”, 01 (một) gói ma túy “khay” dạng tinh thể màu trắng và thuê 01 loa, 01 đèn laser, 01 đèn chớp, 01 ống hút để dùng vào việc sử dụng ma túy. Khoảng 15 phút sau có một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) điều khiển xe taxi công nghệ đến giao ma túy và các dụng cụ dùng vào việc sử dụng ma túy cho S. S nhận ma túy rồi đi vào khu vực phòng bếp của căn nhà. Tại đây S lấy 01 đĩa sứ màu trắng trên kệ để bát đĩa, 01 thẻ nhựa ngân hàng Vietcombank mang tên “PHAN L S” cùng gói ma túy “khay” đưa cho Nguyễn Văn D để “xào”, chế biến ma túy từ dạng tinh thể thành dạng bột cho cả nhóm sử dụng. D cầm đĩa sứ bật bếp ga để hơ nóng rồi cầm gói nilon chứa ma túy khay đổ một ít ra đĩa rồi dùng thẻ nhựa do S đưa để “xào” ma túy. Đồng thời lúc này S hỏi D và Ch có ai sử dụng ma túy “kẹo” hay không thì D và Ch từ chối nên S bẻ đôi 01 (một) viên ma túy “kẹo” màu nâu đưa cho Nguyễn Ngọc Ch ½ viên để sử dụng nhưng Ch cho vào miệng rồi lén nhổ ra mảnh khăn giấy vệ sinh màu trắng cầm trên tay, còn S sử dụng 1/4 viên và ném bỏ 1/4 viên vào bồn cầu nhà vệ sinh sau đó xả nước trôi đi . Sau đó S, D, L,Ch cùng đi vào căn phòng thứ 3 của căn nhà (hướng từ cửa chính đi vào) để cùng nhau sử dụng ma túy khay mà D đã “xào”. Khi vào trong phòng thì Ch vứt mảnh khăn giấy có chứa ½ viên ma túy kẹo ra gờ cạnh cửa sổ trong phòng, D đặt đĩa ma túy đã “xào” lên nệm còn S thì mở đèn laser, đèn chớp, dùng điện thoại của mình kết nối Bluetooth với loa để mở nhạc cho cả nhóm cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy. Đối với số ma túy “kẹo”, khay” còn dư thì S để trên bàn gỗ, mặt kính trong phòng cho cả nhóm tiếp tục sử dụng. Đến 19 giờ 15 phút cùng ngày khi S, D, L,Ch đang sử dụng trái phép chất ma túy thì bị Công an thành phố B kiểm tra phát hiện bắt quả tang và thu giữ niêm phong tang vật theo quy định của pháp luật.

Tại Bản kết luận giám định số: 922/KL-KTHS ngày 03/8/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Lâm Đồng kết luận:

Mẫu chất bột (thu trên đĩa, bám dính trên ống hút, thẻ nhựa tại số nhà R, đường T, Tổ G, phường L, thành phố B ngày 29/7/2023) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4828 g (không phẩy bốn tám hai tám gam), loại Ketamine.

Mẫu tinh thể đựng trong một gói nylon (thu tại số nhà R, đường T, Tổ G, phường L, Bảo Lộc ngày 29/7/2023) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,7535 g (không phẩy bảy năm ba năm), loại Ketamine.

Mẫu một viên nén màu nâu (thu tại số nhà R, đường T, Tổ G, phường L, thành phố B ngày 29/7/2023) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4147 g (không phẩy bốn một bốn bảy gam), loại MDMA.

Mẫu cục bột màu nâu (thu trong gói giấy để ở gờ cạnh phía dưới cửa sổ phòng ngủ số nhà R, đường T, Tổ G, phường L, thành phố B vào ngày 29/7/2023) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1140 g (không phẩy một một bốn không gam), loại MDMA.

Ketamine là chất ma túy nằm trong danh mục III, STT: 35, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

MDMA là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT: 27, Nghị định 73/2018/NĐ- CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. (BL54-55) Vật chứng: Quá trình điều tra cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ: 02 (hai) phong bì niêm phong số 922/2023-PC09 bên trong có mẫu vật sau giám định gồm 01 đĩa sứ màu trắng, mặt tròn có đường kính 25,5cm, 01 thẻ ngân hàng mang tên “PHAN L SON", 01 ống hút tự chế dài 13,5cm bằng tờ tiền Polime mệnh giá 20.000đ; 01 (một) loa màu đen kích thước 18cm x 21cm x 40cm nhãn hiệu "harman/kardon”; 01 (một) đèn chớp màu trắng kích thước 7,5cm x 15cm và 01 (một) đèn laser màu đen kích thước 9,5cm x 15cm là dụng cụ các bị cáo dùng khi đang sử dụng trái phép chất ma tuý; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu đỏ, số Imei:353993 1039511 24, gắn sim số 0917373768 của Phan L S; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy Note20 Ultra màu trắng, số Imei 1: 352682 5030 91190, gắn sim số 0X 636791 và 0X790791 của Nguyễn Văn D.

Bản Cáo trạng số 188/CT-VKSBL ngày 27/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Lâm Đồng đã truy tố các bị cáo Phan L S, Nguyễn Văn D về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự 2015. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58; Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo S từ 07 đến 08 năm tù; áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58; Điều 17; Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo D từ 04 đến 05 năm tù và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 02 (hai) phong bì niêm phong số 922/2023-PC09 bên trong có mẫu vật sau giám định gồm 01 đĩa sứ màu trắng, mặt tròn có đường kính 25,5cm, 01 thẻ ngân hàng mang tên “PHAN L SON", 01 ống hút tự chế dài 13,5cm bằng tờ tiền Polime mệnh giá 20.000đ; 01 (một) loa màu đen kích thước 18cm x 21cm x 40cm nhãn hiệu "harman/kardon”; 01 (một) đèn chớp màu trắng kích thước 7,5cm x 15cm và 01 (một) đèn laser màu đen kích thước 9,5cm x 15cm. Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu đỏ, số Imei: 353993 1039511 24, gắn sim số 0917373768 của Phan L S; trả lại cho bị cáo D 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy Note20 Ultra màu trắng, số Imei 1: 352682 5030 91190, gắn sim số 0X 636791 và 0X790791. Buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo khai nhận, đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nêu, bị cáo không thắc mắc, khiếu nại gì về nội dung cáo trạng, thấy đúng với tội của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố B; của Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã thực hiện đúng về trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên tòa các bị cáo không thắc mắc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và Người tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử thấy rằng các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đúng qui định của pháp luật.

[2] Về căn cứ xác định tội: Vào ngày 29/7/2023, tại số nhà R đường T, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, Phan L S đã có hành vi khởi xướng, rủ rê và chuẩn bị chất ma túy loại Ketamin, MDMA, chuẩn bị địa điểm, công cụ để sử dụng ma túy. Nguyễn Văn D đã có hành vi giúp sức cho S trong việc góp tiền để mua ma túy, thuê địa điểm, dụng cụ và là người trực tiếp “xào” ma túy để cho Phan L S, Nguyễn Văn D, Nguyễn Ngọc Ch, Hồ Thị Mỹ L cùng sử dụng thì bị Cơ quan CSĐT bắt quả tang và thu giữ ma túy đang sử dụng là 1,2363gam ma túy loại Ketamin và 0,5287gam ma túy loại MDMA. ĐốiChếu lời khai của các bị cáo, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, có đủ căn cứ khẳng định hành vi của bị cáo S và bị cáo D đã phạm vào tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Về tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện thái độ coi thường pháp luật, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tệ nạn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, góp phần làm gia tăng các tệ nạn xã hội trên địa bàn thành phố B. Vì vậy, cần áp dụng cho các bị cáo một hình phạt nghiêm khắc để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Trong vụ án này bị cáo S là người khởi xướng, rủ rê, thuê địa điểm, chuẩn bị ma túy, công cụ để sử dụng ma túy. Bị cáo D giúp sức cho bị cáo S trong việc góp tiền để mua ma túy, thuê địa điểm, chuẩn bị công cụ và trực tiếp “Xào” ma túy để cùng nhau sử dụng. Do vậy cần áp dụng hình phạt đối với S cao hơn đối với D.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo; Gia đình của các bị cáo có công với cách mạng nên được áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt. Trong quá trình điều tra bị cáo D tích cực hợp tác với Cơ quan điều tra Công an thành phố B trong việc phát hiện tội phạm, quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo D có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự chuyển khung hình phạt đối với bị cáo.

Xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tính răn đe, giáo dục.

[5] Đối với Hồ Thị Mỹ L, Nguyễn Ngọc Ch là những người được Phan L S rủ đến tham gia sử dụng trái phép chất ma tuý. Quá trình điều tra xác định L và Ch không có hành vi giúp sức gì cho các bị cáo trong việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Do vậy Cơ quan CSĐT Công an thành phố B đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với L vàCh về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là đúng theo quy định của pháp luật.

Đối với bà Nguyễn Thị Bích L và chị Trần Thị Thiên Th, là những người cho Phan L S thuê nhà nguyên căn để sử dụng trái phép chất ma túy. Tuy nhiên bà L và chị Th đều không biết rõ mục đích S thuê nhà để thực hiện tội phạm, nên Cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm hình sự đối với bà L và chị Th là đúng quy định của pháp luật Đối với người tên Tr là người đã bán ma túy và cho Phan L S thuê các dụng cụ để sử dụng ma túy và người đàn ông đã giao ma túy và các dụng cụ dùng vào việc sử dụng ma túy cho S. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch của những người này nên Cơ quan điều tra tách ra làm rõ và xử lý sau khi có đủ căn cứ là phù hợp.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 02 (hai) phong bì niêm phong số 922/2023- PC09 bên trong có mẫu vật sau giám định gồm 01 đĩa sứ màu trắng, mặt tròn có đường kính 25,5cm, 01 thẻ ngân hàng mang tên “PHAN L SON", 01 ống hút tự chế dài 13,5cm bằng tờ tiền Polime mệnh giá 20.000đ; 01 (một) loa màu đen kích thước 18cm x 21cm x 40cm nhãn hiệu "harman/kardon”; 01 (một) đèn chớp màu trắng kích thước 7,5cm x 15cm và 01 (một) đèn laser màu đen kích thước 9,5cm x 15cm xét không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu đỏ, số Imei: 353993 1039511 24, gắn sim số 0917373768 của Phan L S phương tiện phạm tội cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy Note20 Ultra màu trắng, số Imei 1: 352682 5030 91190, gắn sim số 0X 636791 và 0X790791 của Nguyễn Văn D không liên quan đến tội phạm cần trả lại cho bị cáo D,

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo..

[8] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Phan L S Nguyễn Văn D phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Phan L S 07 (Bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/7/2023.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 04 (Bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/7/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 02 (hai) phong bì niêm phong số 922/2023-PC09 bên trong có mẫu vật sau giám định gồm 01 đĩa sứ màu trắng, mặt tròn có đường kính 25,5cm, 01 thẻ ngân hàng mang tên “PHAN L SON", 01 ống hút tự chế dài 13,5cm bằng tờ tiền Polime mệnh giá 20.000đ; 01 (một) loa màu đen kích thước 18cm x 21cm x 40cm nhãn hiệu "harman/kardon”; 01 (một) đèn chớp màu trắng kích thước 7,5cm x 15cm và 01 (một) đèn laser màu đen kích thước 9,5cm x 15cm.

Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu đỏ, số Imei: 353993 1039511 24, gắn sim số 0917373768; Trả lại cho bị cáo D 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy Note20 Ultra màu trắng, số Imei 1: 352682 5030 91190, gắn sim số 0X 636791 và 0X790791.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/11/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B vớiCh cục thi hành án dân sự thành phố B).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội qui định về án phí, lệ phí tòa án, buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 02/2024/HS-ST

Số hiệu:02/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về